Hoàn thành Bản sắc anh hùng - Hoàn thành - Kim Lưu

Ktmb

Gà ngơ
Nhóm Tác giả
Tham gia
14/2/14
Bài viết
2.766
Gạo
5.000,0
Truyện của bạn viết khá tốt, câu cú và văn phong ổn định, gây được nhiều thiện cảm cho độc giả.
Bạn nên trình bày cho khoảng cách giữa các đoạn rộng, phân đoạn, phân dòng rõ ràng hơn cho dễ nhìn. Bạn viết dày quá, lại lẫn lộn giữa thoại và lời dẫn khiến cho người đọc khó theo dõi. Bạn hãy sửa lại nhé. Ví dụ:
Tên nhỏ con tính tình vốn không hiền hòa gì, cứ như bình thường thì đã xông đến dằn mặt bằng mấy cú đấm. Nhưng khi nãy thấy Võ Tài phóng chai C2 nhẹ tênh mà đánh văng được con dao trong tay gã, gã tuy không phải cao thủ nhưng cũng có chục năm luyện võ, tay cầm cực kì chắc, liền biết ngay Võ Tài không phải hạng vừa. Gã ráng nén giận hỏi:
“Giang hồ ai lo chuyện đó. Cớ gì mà lại xen vào chuyện người khác?”
Tên mập mạp tỏ vẻ khó hiểu hỏi:
“Anh hai, nó chỉ đứng xem thôi mà, càng oai cho anh em ta.”
Tên đô con dường như đã nhận ra điều gì đó liền góp ý:
“Hay để em ra táng cho nó mấy cái bạt tai rồi đuổi vào nhà tránh ngứa mắt anh hai.”
Tên nhỏ con không lý gì tới hai tên đàn em lắm chuyện, dường như hắn đã quen với cách cư xử của chúng, mắt vẫn nhìn Võ Tài.
Võ Tài nói:
“Các người ức hiếp trẻ con người già giữa phố, ai thấy cũng có thể ra tay giúp đỡ. Khi nãy lão đã nói là không có tiền nên xin khất lại mấy hôm, các người việc gì phải làm khó một lão ăn mày như thế?”
Khi bạn muốn dẫn thoại bằng giọng kể có dấu hai chấm, bạn nên đánh dấu thoại bằng dấu gạch ngang (-) thay vì bỏ trong "..."
 

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
0,0
Bản sắc anh hùng

Chương 28: Truy đuổi




Hai người ngồi ngoài ban công, ánh đèn trong phòng hắt ra khiến cho khung cảnh tranh sáng tranh tối, gió mát hiu hiu thổi, dung mạo Trang Nhi trông rạng ngời, nhưng mắt nàng thấm buồn. Nàng ngồi im lặng, gió len lỏi đùa giỡn từng lọn tóc mượt mà của nàng làm chúng phất phới không ngừng. Võ Tài ngồi cạnh nàng trên ghế đá, đắm mình trong mùi hương dịu nhẹ của Trang Nhi, nhưng nó thủy chung cũng vẫn không dám ngồi sát nàng.

Hai người im lặng một chập như để thưởng thức sự yên tĩnh của không gian. Trang Nhi mở lời: “Tài ngồi gần Trang hơn được không?”

Võ Tài tuy bối rối nhưng không đủ sức từ yêu cầu đó, chỉ khẽ gật đầu một cái rồi áp sát Trang Nhi. Nàng chẳng nói chẳng rằng gục đầu lên vai nó, nắm lấy bàn tay rắn chắc của nó. Tức thì có một luồng điện không biết từ đâu chạy khắp cơ thể Võ Tài khiến tim nó đập rộn ràng, cả người cứng đơ như tượng. Một cảm giác vừa ngọt ngào, vừa lạ lẫm, vừa run rẩy xâm chiếm con người nó. Trên vai nó là cô gái xinh đẹp như hoa này sao, là thật hay là mơ. Trang Nhi dường như muốn là người chủ động, những ngón tay của nàng nghịch ngợm những ngón tay của nó, đầu nàng hơi khẽ cựa quậy trên vai nó, còn nó thì vẫn chưa dám có cử chỉ gì liều lĩnh.

Nàng bỗng cười khúc khích nói: “Tài đang sợ sao, Trang tưởng Tài không biết sợ là gì chứ!”

Võ Tài cứng cả họng, đầu óc dường như rỗng tuếch, hoàn toàn chẳng có gì ngoài cảm giác mơn man và ngọt ngào mà cô gái này đang mang lại.
“Ừ, Tài đang sợ,” nó ấp úng đáp, “Tài sợ giây phút này sẽ qua đi, và không bao giờ trở lại nữa.”

Trang Nhi khẽ cười, tiếng cười vang sát bên tai nó, du dương như một khúc nhạc. Nàng nói, giọng nàng hình như còn ngọt ngào hơn cả lúc bình thường: “Trông anh vậy mà cũng giỏi nói những lời ngọt ngào quá ha.”

Sau những phút bàng hoàng ban đầu, Võ Tài đã cảm thấy mạnh dạn hơn, nó nắm nhẹ tay nàng, nàng cũng nắm lấy tay nó: “Tài nói thật lòng mà, và những lời thật lòng luôn luôn ngọt ngào!”

Trang Nhi cười nép mình sát hơn vào Võ Tài, nó lúc đó nào còn biết trời trăng gì nữa, cả thế giới này dường như chỉ còn lại mình nàng mà thôi, và nàng là của nó, trong lòng nó bỗng dâng lên một cảm giác chiếm hữu kì lạ, thứ cảm giác nó chưa bao giờ có trước đây. Nó muốn người con gái bên cạnh là của nó, và chỉ của nó mà thôi. Bất giác bằng cánh tay còn lại, nó quàng qua vai nàng, xiết nhẹ nàng vào lòng.

Nàng lại cười khúc khích nói: “Cũng liều quá ta, tưởng anh không dám ôm Trang chứ.”

Võ Tài nghe vậy thì giật mình, tưởng nàng không thích, bàn tay đã hơi nới lỏng ra. Nhưng bằng những cảm xúc mà chỉ những người yêu nhau mới hiểu, nó hiểu được sự ngọt ngào trong lời nói của nàng, rõ ràng là nàng cũng muốn nằm trong vòng tay nó. Tức thì cánh tay kia lại xiết nàng trở lại: “Nếu Tài không dám giữ lấy điều mình yêu mến, thì còn gì là con trai nữa.”

Trang Nhi bỗng béo nhẹ vào bàn tay nó một cách trìu mến: “Mồm mép cũng ghê quá nhỉ!”

Nhưng rồi nàng lại gục đầu vào ngực nó. Võ Tài cảm thấy da thịt tươi mát của nàng như đang lan truyền sang người mình, cũng như hơi ấm của mình đang làm nàng nóng lên, hình như nàng thở nhanh hơn.

Nó, cũng như bao thằng con trai khác, những mong cái giây phút ngọt ngào của mối tình đầu này sẽ không bao giờ trôi qua, muốn cả hai hòa tan vào nhau, không cách xa nhau dù chỉ một chút. Phải chăng thứ tình cảm khiến nó đang nảy sinh những ước muốn đó, là tình yêu ư! Một thứ tình cảm thật mãnh liệt. Cuối cùng, nó đặt nụ hôn lên mái tóc thơm ngào ngạt của nàng, và giữ đôi môi ở nguyên trên đó. Nó thì thào: “Trang có biết là Trang đang làm Tài mê man không?”

Trang Nhi thì thào lại: “Mê man sao, mê man thế nào?”

Nó đáp: “Mê man đến mức không muốn rời khỏi Trang nữa. Tài chưa bao giờ có cảm giác như vậy với cô gái nào cả.”

Trang Nhi hơi cao giọng nói: “Xạo quá, ai thèm tin!”

Nó vội khẳng định: “Tài nói thật mà, trước giờ Tài chưa từng ở gần ai đến như vầy cả, cũng chưa từng muốn.”
Trang Nhi vẫn tỏ vẻ không tin bảo: “Ai biết chứ, cứ cho là trước đây chưa từng đi, nhưng sau này ai dám chắc.”

Tim nó nhảy dựng lên, nó nắm tay nàng mà hứa bằng cả sự chân thành không chút giả dối nào: “Tài hứa mà, trước đây cũng thế, sau này cũng vậy, Tài không gần gũi cô gái nào khác ngoài Trang đâu.”

Trang Nhi hơi ngạc nhiên trước phản ứng của nó, vốn nàng cũng chỉ muốn chọc ghẹo vậy thôi, không ngờ nó lại nghiêm túc đến vậy, nhưng tất nhiên sau chút ngạc nhiên thì nàng lại cảm thấy rất ấm áp. Có cô gái nào nghe những lời ấy của người yêu mà lại không thấy ấm áp chứ. Rồi nàng khẽ hôn lên má nó.

Nụ hôn đó đưa Võ Tài lên đỉnh điểm của cảm xúc. Trang Nhi hôn xong, đôi môi nàng vẫn để đó, đợi một nụ hôn đáp trả, hai người khuân mặt kề sát nhau, hơi thở hòa vào nhau. Tim Võ Tài đập rộn lên như trống ngày hội. Nhưng nụ hôn lên má của Trang Nhi khiến hình ảnh của Hoa Mai chợt hiện lên trong đầu nó. Hoa Mai mới là cô gái đầu tiên đã hôn lên má nó, và không hiểu sao nó vẫn luôn nhớ về nụ hôn vội vã đó. Tệ hơn là nó lại nhớ tới ngay đúng vào lúc này, đúng vào lúc mà tâm trí nó chỉ nên dành trọn cho người con gái đang trong vòng tay mình. Nhưng hình ảnh Hoa Mai lại càng hiển hiện rõ hơn, và ngăn không cho nó hôn lên đôi môi nồng cháy đang chờ đợi của Trang Nhi. Sau cùng nó hôn lên trán nàng, hôn lên mắt nàng, và ôm nàng vào lòng. Trong lòng cảm thấy có điều không phải.

Trang Nhi rất tinh ý hỏi: “Sao Tài không hôn Trang?”

Võ Tài cố giữ thái độ tự nhiên, nó hiểu tuyệt đối không thể để nàng biết mình vừa nghĩ tới cô gái khác. Nó vuốt ve mái tóc nàng đáp: “Tài chưa sẵn sàng!”

Trang Nhi hỏi: “Sẵn sàng để hôn một cô gái ư?”

Võ Tài nói: “Sẵn sàng để giữ trái tim một cô gái.”

Trang Nhi nói: “Vậy là Tài không cần trái tim cô gái đó?”

Nó đáp: “Không! Tài sợ không giữ được trái tim cô gái đó mãi.”

Nàng cười, ôm nó chặt hơn: “Ngốc quá, trái tim không phải đồ vật, nó đã thuộc về ai thì sẽ vĩnh viễn của người đó.”

Nó lại nói: “Thật sao, vậy chẳng lẽ nó thuộc về Tài rồi sao?”

Nàng đáp: “Cái đấy sao lại hỏi Trang, đồ của Tài Tài phải tự biết chứ.”

Nàng nói xong thì cả hai cùng cười hạnh phúc, tình yêu quả là một thứ gia vị mang lại sự ngọt ngào cho cuộc sống. Nó lại hôn lên trán nàng.

Sau cùng nó cũng biết nếu hai người cứ ngồi nói với nhau những lời yêu thương âu yếm ấy, thì có lẽ phải hết đêm trong khi đây không phải chuyện quan trọng nhất lúc này. Nó đi vào đề tài chính: “Trang sẽ không giấu tài điều gì phải không?”

Nàng không đáp, nhưng gật đầu.

Nó hỏi: “Trang là ai?”

Trang Nhi ngồi dựa trở lại vào ghế, cúi đầu im lặng, nhưng vẫn nắm bàn tay nó.

Võ Tài lại nói: “Nếu Trang không tiện nói cũng không sao đâu, Tài chỉ hỏi vậy thôi.”

Nàng đáp: “Trang chưa kể với ai bao giờ cả, cũng chẳng có ai mà kể. Nhưng nay Trang có Tài rồi, Trang kể cho Tài nghe.”

Nó mỉm cười nhìn nàng trìu mến.

Nàng bắt đầu: “Bang chủ Liên Hoa Bang là kẻ đã giết chết cha của Trang!”

Võ Tài nói: “Cái đấy Trang nói rồi mà!”

Nàng lại tiếp: “Cha của Trang là anh ruột của hắn ta!”

“Sao!” Võ Tài giật nảy mình trước thông tin quá bất ngờ ấy. Nó nói: “Thật là như vậy sao?”

Nàng gật gật đầu xác nhận, nó hỏi ngay: “Vậy chuyện là như thế nào?”

Trang Nhi nói: “Chuyện dài dòng lắm, có lẽ phải bắt đầu từ ông nội của Trang…”

Trang Nhi nói tới đó thì nghe có tiếng người bước lên cầu thang. Võ Tài bảo: “Chắc thằng Long hay thằng Điệp gì đó về.”

Hai người vội ngồi tách nhau ra, lấy lại vẻ bình thường.

Cửa phòng mở và thằng Long xuất hiện, tay ôm cái laptop, vẻ mặt hớn hở khác thường. Trang Nhi ghé đầu vào trong cười nói: “Long ra ngoài này chơi cho mát.”

Thằng Long hơi ngạc nhiên một chút vì sự có mặt của Trang Nhi, nhưng nó vốn không phải người hay để ý, bèn đặt cái lap xuống bàn rồi ra ban công ngồi.

Trang Nhi hỏi: “Đi chơi về có phải hôn?”

Thằng Long nói: “Chơi bời gì chị hai, người ta đi lo công chuyện. Mà có cái này hay lắm tôi kể cho hai người nghe nhá.”

Võ Tài nói: “Có gì hot?”

“Rất hot luôn, tao mới học được cách hack mọi loại mã hóa trên đời này, nghe ghê không! Hay mày cứ nghĩ đơn giản là tao có thể bẻ khóa mọi loại mật mã an ninh của mọi thiết bị kĩ thuật số, miễn là nó có mật mã. Như là cái điện thoại của mày chẳng hạn, mày khóa đi, tao mở một phát cho mày coi. Sao, thấy ghê chứ! Tất cả là tự tao nghĩ ra đấy.”

Trang Nhi cười khúc khích.

Võ Tài biết thằng Long là con mọt máy tính từ lâu, và rất đam mê môn này, và cái mà nó đang nói tới kia chẳng hẳn cũng không phải tầm thường, nhưng nó vẫn chọc: “Tao nghe không thấy ghê, mà thấy giống trong phim ấy mày. Mày định đi làm tin tặc à?”

Thằng Long phấn khích nói: “Phim gì mà phim, phim là vớ vẩn hết! Cái này mới gọi là công nghệ. Mày thấy có thằng nào chẳng học mẹ gì về máy tính mà viết được cái phần mềm này chưa, chỉ cỡ như tao thôi!” Nói rồi nó hô hô cười lớn, vẻ mặt vô cùng đắc ý.

Vừa lúc đó nghe dưới nhà có tiếng xe máy nẹt bô ầm ầm, nghe qua cũng phải tới mười mấy chiếc, mà âm thanh đó chỉ có thể là những chiếc môtô đắt tiền chứ không phải là loại xe máy bình dân. Kế lại có tiếng quát tháo ầm ĩ. Võ Tài và Trang Nhi nhìn nhau, thầm nghĩ có điều không ổn. Nó vịn vào lan can nhìn xuống dưới, thấy một đoàn người xe tụ tập trước cửa nhà, ai nấy tay xách binh khí, điệu bộ hầm hầm như đi ăn cướp.

Bỗng thấy cửa phòng bật mở, bên ngoài là lão Sáu cùng ba người nữa, Võ Tài nhận ra tất cả là những người trọ trong nhà. Lão Sáu mặt căng thẳng nói: “Bọn Liên Hoa Bang tới, chúng ta mau đi ngay.”

Trang Nhi đứng bật dậy, hoa dung thất sắc, và việc đầu tiên mà nàng làm là nắm chặt tay Võ Tài, ánh mắt ra tha thiết, trong lúc lão Sáu thúc giục ngoài cửa thì nàng nói: “Trang sẽ gọi cho Tài!”
Nói rồi nàng đi về phía chú mình. Lúc đó nghe dưới cửa có tiếng đánh nhau ầm ầm vọng lên, lại thấy gần chục bóng đen tung người đu lên ban công nhảy thẳng vào trong phòng, phía cầu thang cũng có mười mấy người nữa tay cầm binh khí ùa lên. Mọi lối thoát khỏi căn nhà nhanh chóng bị khóa kín.

Lão Sáu cùng với những người đi cùng không có đường lui, cũng chẳng có đường tiến, tức thì bị vây cả vào trong căn phòng nhỏ của Võ Tài.

Đám người kia phần đông đều bịt mặt, chỉ trừ một tên mặc vest, tuổi chừng hơn năm mươi, ra dáng chỉ huy. Hắn bước ra nói: “Trốn cũng kỹ quá nhỉ, Tây Sứ quả nhiên nhãn lực như thần, cuối cùng cũng nhìn ra ngươi.”

Nhóm của lão Sáu vỏn vẹn chỉ có bốn người, miễn cưỡng tính thêm Trang Nhi nữa là năm. Còn thằng Long và Võ Tài xem như ngoài cuộc, nhưng cả hai đã đứng giữa vòng vây, chắc chắn khi xảy ra đánh nhau cũng không thể thoát khỏi dính dáng, chưa kể kiểu gì thì cũng phải phụ giúp Trang Nhi và lão Sáu một tay. Thằng Long sớm đã săn tay áo, sẵn sàng lâm trận, nhưng nó chỉ xót đồ đạc trong nhà, nhất là cái laptop yêu quí của nó, nên nó thì thầm vào tai Võ Tài: “Một lát nhớ chụp cái mày giùm nhé bồ.”

Lão Sáu điềm nhiên phe phẩy quạt, không tỏ chút sợ hãi, quả nhiên khí độ hơn người. Lão cười nhạt nói: “Ta đường đường sống giữa Sài Gòn, có gì đâu mà phải trốn, nếu trách thì trách các ngươi có mắt như mù, không nhìn ra ta.”

Tên mặc vest nói: “Im mồm, hôm nay ta sẽ lôi lão về cho bang chủ xử trị, biết điều thì buông tay chịu trói, đỡ phải nếm mùi đau khổ.”

Lão Sáu quát: “Vớ vẩn! Muốn đánh thì xông lên, chớ có nhiều lời.”

Tên kia khuân mặt chuyển sang tức giận, phất tay ra hiệu cho đám đàn em xông vào.

Lão Sáu quát: “Ta đoạn hậu, các người mau đem tiểu thư chạy đi, đó là lệnh!”

Nói xong lão vung quạt xông vào giáp chiến. Lão Sáu tuy già nhưng thân thủ cực kỳ mau lẹ, ra đòn như vũ bão, mỗi chảo, mỗi quyền phát ra là có kẻ bị thương.

Nhưng đám ngươi kia nhân số đông đảo, hết lớp này đến lớp khác đua nhau ùa vào, vây đánh mấy người nhà lão Sáu rất gắt. Thằng Long và Võ Tài cũng nhập cuộc, trận hỗn chiến càng thêm ác liệt.

Đám người kia võ công hoàn toàn không tầm thường, phối hợp ra đòn rất bài bản, không lộn xộn như những đám lâu la ô hợp, rõ ràng chúng là một đội đã được tập luyện rất kỹ càng, sức mạnh của mấy chục người hợp lại như một, những người bên phía lão Sáu không cách nào địch lại. Chỉ sau nửa giờ giao chiến, hai người đã gục, chỉ còn lão Sáu và Võ Tài là vẫn duy trì được, hai người phải che chắn cho Trang Nhi, nên càng đánh càng bị dồn vào chân tường, thế chết gần như đã rõ. Tên mặc vest chỉ huy đứng ngoài quan chiến, nhếch mép cười chờ thắng lợi.

Lúc gần như đã lâm vào đường cùng, lão Sáu bỗng trở nên hung hăng như một con hổ dữ, dốc toàn lực ra chiêu đánh thí mạng, nhất thời đẩy dạt đám người ra. Lợi dụng chút thông thoáng ấy, lão quắc mắt nhìn Võ Tài nói: “Mau đưa con bé chạy đi, nhanh!”

Trang Nhi gào lên: “Không chú, con không bỏ chú lại đâu.”

Lão Sáu xoẹt ra một cước, hai tay xòe chưởng gầm lên một tiếng lại đẩy lui địch nhân về sau, quát lớn: “Có nghe ta nói không!”

Võ Tài biết lão Sáu đang dùng hết sức giữ chân bọn người kia lại để cho cháu gái mình chạy, nếu không đi ngay thì chỉ e cả bọn không ai thoát được, giờ không phải là lúc để lưỡng lự. Nghĩ vậy nó hú thằng Long, rồi kéo Trang Nhi xông ra hướng ban công, xuất chưởng đánh văng bốn năm mạng ra ngoài, rồi ôm Trang Nhi nhảy thẳng xuống đường. Lão Sáu cùng với những người khác gồng mình cản chân đám người bịt mặt lại, nhưng sao cản hết được bọn chúng, chỉ thấy tên mặc vest đã dẫn theo chục tên khác phi xuống ban công đuổi theo.

Võ Tài vừa chạm đất, đã kéo Trang Nhi cùng với thằng Long chạy thục mạng ra ngoài đường lớn, phía sau mười mấy tên xách dao truy đuổi.

Ra tới đầu hẻm thì gặp ngay thằng Điệp. Nó được một con bé đi xe tay ga đèo về, thấy Võ Tài, thằng Long và Trang Nhi đang hối hả chạy ra, phía sau lại có người bám theo, biết ngay là có biến. Nó không nói không rằng, bất thình lình phát cước xông lên truy cản.

Võ Tài nói: “Đi mau Điệp, phía sau còn đông lắm.”

Quả nhiên lời vừa dứt thì thấy một toán gần chục tên nữa cưỡi môtô chạy ra. Thằng Điệp sao còn dám ham đánh, vội cùng với bọn Võ Tài bỏ chạy.

Bốn người nhắm đường lớn mà chạy, nhưng cuốc bộ sao nhanh hơn đi xe, chẳng mấy chốc đã bị đám giang hồ cưỡi môtô quây lại vào giữa.

Võ Tài dứt khoát nói: “Nhất định phải chạy thoát!”

Thằng Long với thằng Điệp hiểu ý, biết tình thế rất nguy ngập, không chờ đám người kia lại gần đã vận lực bất ngờ xông lên, vút vút phóng quyền phát cước, hai chiếc môtô chưa kịp chuẩn bị lập tức bị đánh bật ngửa.

Võ Tài nói: “Đoạt xe!”

Bốn người bọn Võ Tài nhảy lên hai chiếc môtô cướp được rồi phóng đi trước sự truy bắt ráo riết của những tên còn lại. Tiếng nẹt bô đinh tai nhức óc. Đoàn xe rượt đuổi nhau chẳng mấy chốc đã chạy vào đường lớn khi đó đang tấp nập xe cộ qua lại.

Đường phố Sài Gòn từ sáng tinh mơ cho tới tận giữa đêm lúc nào cũng nườm nượp xe cộ, người đông như kiến.

Võ Tài chở Trang Nhi, Thằng Long chở thằng Điệp, hai chiếc xe luồn lách đi giữa biển người. Phía sau là mười mấy chiếc khác nẹt bô dữ dội bám theo. Dân thường đi đường ai nấy thấy giang hồ xách dao rượt đuổi nhau trên phố đều khiếp viếp, đàn bà thì thét lên kinh hãi, đàn ông thì trợn mắt hết hồn, tất cả đều dạt hết sang hai bên đường tránh lối và tránh bị vạ lây. Đường phố náo động y như chạy loạn.

Đám người kia ngay đến cả truy bắt cũng rất có bài bản, bốn chiếc đi lên dẹp đường, bốn chiếc chia hai bên đi hộ tống, bốn chiếc còn lại lo bám mục tiêu, chẳng mấy chốc chúng đã làm chủ cả con đường lớn, y như một đám người có công vụ.

Chạy đến một ngã tư lớn, Võ Tài và thằng Long đánh xe rẽ phải vào một con đường còn lớn hơn, con đường này chia bốn làn, có hàng rào phân cách ở giữa, đường xá thênh thang bằng phẳng, xe cộ chạy thoải mái. Môtô vào đường này như thuyền ra biển lớn, hai thằng nó kéo ga phóng nhanh hết sức có thể, tiếng gió vù vù thổi bên tai, ánh điện nhập nhòe lướt qua hai bên đường. Thằng Long thích chí gào lên: “Má nó, xe tốt vãi!”
Nhưng trình chạy xe của hai đứa nó sao bằng những tên kia, nên dù chạy nhanh cỡ nào vẫn thấy chúng dàn hàng ngay sau đít, cứ bám sát từng chút một, rú còi inh ỏi để de dọa tinh thần.

Đang lúc đôi bên bám đuổi nhau gắt gao như thế thì lại nghe tiếng còi hú vang phía sau, khác hẳn tiếng còi bọn sát thủ, công an cuối cùng cũng xuất hiện tham gia màn rượt bắt. Võ Tài không đoán nổi số lượng phía sau là bao nhiêu, nhưng chỉ nghe tiếng hú liên miên không dứt cũng đủ biết nhân lực không hề ít. Một đoàn môtô vừa công an vừa thường dân vừa giang hồ bám đuổi nhau chạy thẳng về hướng quốc lộ.

Võ Tài chợt nghe bên tai có tiếng gió rít lên. Nó võ công cao cường, thính lực cực tốt nên vẫn nhận ra tiếng rít kia giữa tiếng gió vù vù bên tai và tiếng còi xe inh ỏi. “Mau hụp xuống!” nó la lên. Trang Nhi tức thì cúi rạp người trên lưng nó, một lưỡi dao xoẹt qua ngang đầu, trật mục tiêu ghim luôn xuống mặt đường.

Bọn người kia một chiêu đánh hụt liền liên tiếp phi ám khí về phía trước truy cản. Võ Tài và thằng Long phải cật lực đánh võng như chong chóng mới tránh được, nhưng như vậy khiến cho tốc độ giảm xuống, cuối cùng lại bị hai hàng môtô kẹp vào giữa.

Bọn người kia xiết vòng vây lại có ý muốn ép cho hai chiếc xe phải té ra đường mới thôi. Tiếng còi hụ của công an vang lên ngay phía sau bọn chúng dường như cũng chẳng màng tới.

Võ Tài biết cứ thế này khó mà thoát, bèn bất ngờ đảo mạnh xe sang phải húc thẳng vào một chiếc môtô, chiếc ấy bị đẩy mạnh mất thăng bằng té nhào xuống mặt đường, rồi theo quán tính phi thẳng về phía trước, tiếng kim loại va đập xoảng xoảng, phụ tùng chiếc xe vỡ tan tành văng tứ tung trên mặt đường, hai tên giang hồ bị té lăn lông lốc không rõ sống chết.

Đám người kia thấy đồng bọn đã bị hạ vội tản ra tránh những chướng ngại vật, đoàn xe công an phía sau lúc đó cũng đã ùa lên, một chiếc không tránh kịp húc vào xác chiếc môtô xấu số phi thẳng lên không trung rồi rớt xuống đất, bị quán tính lôi đi mấy chục mét nữa mới dừng, lửa phừng phừng bốc lên, có lẽ xăng đã bị rò rỉ.

Trong thoáng chốc hai chiếc xe đã bỏ xác trên đường, nhuốm thêm màu ác liệt và chết chóc cho cuộc rượt đuổi. Võ Tài và thằng Long lợi dụng lúc hỗn loạn vọt lên trước, phía sau công an và giang hồ truy cản nhau kịch liệt, kẻ cầm gậy, người cầm đao chém nhau túi bụi. Lại nghe ầm ầm mấy tiếng nữa, thêm hai chiếc môtô, một cảnh sát, một giang hồ không rõ là vướng tay lái vào nhau hay do va chạm mà cả hai chiếc xe cuốn lấy nhau mà trượt dài trên đường, tiếng kim loại rít lên ken két dằng dặc vạch ra trên đường một vệt máu dài loằng ngoằng, chắc là đã có kẻ tử nạn. Dân tình đổ ra đường xem cuộc vui, tức khắc những người bị gục trên đường được đưa đi bệnh viện.

Lúc đó đường quốc lộ đã hiện ra phía trước, một cây cầu vượt vắt ngang qua đường, từ xa đã thấy biển người nhấp nhô chen chúc, chắc chỗ đó đang kẹt xe.

Thằng Long hét: “Gờ tính sao?”

Võ Tài nheo mắt nhìn về trước, Trang Nhi ngồi sau ôm nó chặt cứng, sau nữa là một đoàn xe cũng đang bám đuổi ráo riết. Trang Nhi nói: “Hòa vào đám kẹt xe rồi lẩn đi thôi.”

Kẹt xe ở Sài Gòn có thể nói là như cơm bữa, nhất là tại các ngã tư lớn, ra đường mà không gặp kẹt xe mới là chuyện lạ. Mà cũng có thể vì thường xuyên phải di chuyển trên những con đường kẹt cứng nên những người sống ở thành phố đã quen vơi việc kiên nhẫn, một khi đã lạc vào giữa đám kẹt xe, thì họ tự hiểu vội vã chẳng giải quyết được việc gì, chỉ còn cách nhẩn nha và lê đi.

Bọn Võ Tài giảm tốc độ cố gắng len thật sâu vào trong biển người lúc nhúc. Chỗ đó là ngã tư giao giữa quốc lộ và hai con đường lớn, dòng người đổ về như thác lũ nên lúc nào cũng kẹt cứng, cả một cái ngã tư khổng lồ lúc đó xe máy, xe tải, xe ba gác, xe đạp quấn lấy nhau thành một đám đông lúc nhúc phủ kín cả ngã tư, cứ dịch chuyển từng chút, từng chút một, tiếng xe rầm rì bên tai, khói bụi mịt mù.

Đám giang hồ chạy gần tới thì đã thấy bốn cái đầu của bọn Võ Tài thấp thoáng ẩn hiện trong biển người, chúng biết là có đuổi nữa cũng không thể tóm được, lại thêm một đám công an cứ kè kè bám theo bên cạnh, còn kéo dài thì chắc chắn sẽ bị bắt, cho nên mười mấy chiếc không hẹn mà đồng loạt đạp thắng quay đầu xe 180 độ mà chạy ngược về. Xe công an không có trình quay đầu xe như vậy nên loay hoay một lúc thì cả đám giang hồ đã mất tích trên đường, không còn thấy bóng dạng đâu nữa.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
0,0
Truyện của bạn viết khá tốt, câu cú và văn phong ổn định, gây được nhiều thiện cảm cho độc giả.
Bạn nên trình bày cho khoảng cách giữa các đoạn rộng, phân đoạn, phân dòng rõ ràng hơn cho dễ nhìn. Bạn viết dày quá, lại lẫn lộn giữa thoại và lời dẫn khiến cho người đọc khó theo dõi. Bạn hãy sửa lại nhé. Ví dụ:

Khi bạn muốn dẫn thoại bằng giọng kể có dấu hai chấm, bạn nên đánh dấu thoại bằng dấu gạch ngang (-) thay vì bỏ trong "..."
Cám ơn bạn rất nhiều vì đã góp ý cho mình :D
Mình sẽ cố gắng trình bày rõ ràng ngăn nắp hơn để mọi người tiện theo dõi.
 

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
0,0
Bản sắc anh hùng

Chương 29: Bí mật của Trang Nhi




Bốn đứa Võ Tài ngồi trên bãi cỏ một công viên ven đường quốc lộ gặm bánh mì uống nước khoáng, chỉ có Trang Nhi là cắm mặt ngồi khóc nức nở, Võ Tài ngồi cạnh nàng, và nếu không phải có thằng Long và thằng Điệp ở đó chắc nàng đã ngã vào lòng nó mà khóc rồi. Võ Tài cũng rất muốn vuốt ve an ủi nàng, nhưng nó cũng tự biết cử chỉ yêu thương như thế chỉ nên làm khi có riêng hai người mà thôi. Nó buông ổ bánh mì xuống nói: “Trang đừng lo lắng quá, bác Sáu sẽ không sao đâu.” Giọng nói của nó đầy trìu mến và thông cảm.

Thằng Long một mồm đầy vừa nhai vừa nói: “Ngày mai chúng ta đi cứu người. Hôm nay chúng đánh úp nên chúng ta không có chuẩn bị, ngày mai mình hãy lẻn vào Liên Hoa bang cứu bác ấy ra, sợ quái gì bọn nó!” Nói xong tợp một ngụm nước, mặt đầy căng thẳng.

Thằng Điệp nói: “Mày nói hay quá, chỉ được cái to mồm. Mấy thằng chạy xe máy hôm nay đánh còn chưa được mà đòi đi cứu người.”

Thằng Long đang sẵn tức nói: “Mày nhát chết à!”

Thằng Điệp nói: “Không phải nhát chết, mà làm gì cũng phải xem sức tới đâu chứ.”

Thằng Long biết mình vô lý, không nói nữa, chỉ tộng ổ bánh mình vào mồm nhai.

Võ Tài nói: “Mấy đứa mày cãi nhau làm gì, còn chưa biết bác Sáu thế nào mà.”

Trang Nhi ngẩng lên nhìn nó, mắt nàng đỏ hoe, giọng sụt sùi nói: “Mọi chuyện cũng do Trang mà ra, giờ đã xảy ra rồi, Trang phải tự chịu trách nhiệm lấy chứ không thể để liên lụy đến mọi người được.”

Võ Tài nói: “Trang nói cái gì vậy, xem Tài… xem bọn này là người ngoài sao?”

Thằng Long hỏi: “Nhưng rốt cuộc chuyện là thế nào vậy?”
thằng Điệp tiếp: “Phải đó Trang, sao đám người Liên Hoa Bang lại muốn bắt Trang?”

Võ Tài nói: “Chuyện khi tối Trang nói là sao?”

Trang Nhi nhìn ba người một lượt, lấy tay áo lau lau nước mắt, ráng lấy lại giọng bình thường nói: “Chuyện là vầy, cha của Trang là anh ruột của tên Lưu Bạch Phong, bang chủ Liên Hoa Bang!”

Thằng Long nghe vậy thì há mồm kinh ngạc, bánh mì trong mồm rơi cả ra ngoài.

Trang Nhi lại kể: “Này trước ông nội của Trang là Lưu Quang Hổ, chưởng môn Phục Long Phái lẫy lừng vùng Cửu Long. Nhưng ông lại nuôi nghiệp bá, muốn xưng hùng thiên hạ, cho nên không tránh khỏi làm những điều mà ngày nay người ta gọi là làm loạn. Cho nên mới dẫn tới cuộc tỉ đấu với chưởng môn Huỳnh Gia Võ Quán lúc bấy giờ là Huỳnh Nhậm, nếu Trang không lầm thì là ông nội của Tài phải không.”

Ba đứa Võ Tài gật gật đầu. Thằng Điệp nói: “Chuyện này bọn Điệp cũng biết.” Số là trước giờ

Võ Tài có chuyện gì đều kể cho hai thằng bạn thân nghe, nên hầu hết các chuyện trong môn phái hai đứa nó đều rõ như người trong nhà cả. Huỳnh phu nhân biết điều đó, nhưng vì cũng xem hai đứa nó như con, nên cũng không cấm cản.

Trang Nhi lại nói: “Trận quyết đấu năm ấy hai ngươi đem vận mệnh của môn phái ra đánh cược. Cuối cùng ông nội của Trang thua nên phải theo giao ước, giải tán Phục Long Phái, vĩnh viễn qui ẩn giang hồ.”

Võ Tài nói: “Nhưng có vẻ ông nội của Trang là người rất khéo léo, vừa giải tán Phục Long Phái xong là đã lập ngay ra một Liên Hoa Bang thay thế.”

Trang Nhi thở dài nói: “Ông nội của Trang là một bậc chính nhân quân tử, đã làm đúng theo những gì đã giao ước. Thế nhưng sự đời ai ngờ trước được!”

Thằng Long đã ngừng ăn, sốt ruột hỏi: “Chuyện rốt cuộc thế nào?”

Trang Nhi lại từ tốn nói:

“Nội của Trang có hai người con trai, người em là Lưu Bạch Phong, người còn lại là cha của Trang, tên Lưu Thanh Sơn. Nội Trang năm đó tỉ thí với Huỳnh chưởng môn xong thì bị nội thương rất nặng, nằm liệt giường ba tháng liền, sức khỏe mỗi lúc một sa sút, cộng thêm tinh thần suy sụp, cái chết chỉ còn là chuyện sớm muộn. Phục Long Phái thế lực rất lớn, chi nhánh rất nhiều, thuộc hạ rất đông, công cuộc giải tán môn phái vì thế không phải chuyện nhỏ, cần phải có người chủ trì đại cuộc sau khi ông qua đời. Ông biết trong hai đứa con thì Lưu Bạch Phong là kẻ mưa trí hơn người, rất tài giỏi, nhưng dã tâm quá lớn, nếu kế nghiệp chắc chắn sẽ gây ra một trường sóng gió lớn. Cho nên ông truyền chức chưởng môn lại cho Lưu Thanh Sơn, dặn dò sau khi ông qua đời phải tuyệt đối tuân thủ giao ước, giải tán môn phái cùng mọi hoạt động, kế hoạch đang diễn ra. Cha của Trang lĩnh ý kế nghiệp, tuần tự các bước để đưa Phục Long Phái vào hư vô.

Nhưng Lưu Bạch Phong không cam tâm nhìn cả một cơ nghiệp đồ sộ như vậy bị hủy hoại, cho nên hắn làm phản. Hắn triệu tập các đầu lĩnh trong phái, là những kẻ không muốn môn phái bị tiêu diệt, cùng đứng lên chống lại anh mình. Sự việc năm đó gây ra một trận chiến lớn trong phái. Tên Lưu Bạch Phong miệng lưỡi vô cùng ghê ghớm, hắn mượn cái chết của cha để gieo vào chúng đệ tử lòng thù hận với Huỳnh Gia, lại vu cho anh mình cái tội bất hiếu, hủy hoại sản nghiệp cả đời của chưởng môn, cho nên hắn giành được sự ủng hộ của rất đông đệ tử lớn nhỏ, các tổng đàng trong phái. Số đệ tử này, đa phần là sợ sau khi môn phái giải tán sẽ không biết làm gì để sống, nên ủng hộ hắn rất nhiệt tình mà lờ đi di huấn của cố chưởng môn.

Lưu Bạch Phong trong đêm thống lĩnh mấy trăm thuộc hạ kéo đến vây nhà anh trai. Nghe chú Sáu kể lại, tối đó hai bên đánh nhau một trận kịch liệt, máu nhuộm đỏ cả sân. Cha Trang thế cô lực yếu, không thể địch lại, cuối cùng được thuộc hạ quyết tử mở đường máu đưa đi trốn thoát. Từ đó mai danh ẩn tánh, cùng gia đình và một số thuộc hạ thân cận rút về sống ở một vùng rừng núi ngoài bắc.”

Thằng Long bức xúc chửi: “Cái tên Bạch Phong đúng không bằng con thú, cả anh trai mà cũng muốn giết.”

Thằng Điệp thì cảm thán: “Quyền lực đúng là ma lực!”

Võ Tài lại hỏi: “Vậy năm đó Trang vẫn chưa sinh ra phải không, chuyện sau đó thế nào?”

Trang Nhi lại nói: “Lưu Bạch Phong cướp được ngôi chưởng môn xong thì lập tức tiến hành một loạt cải cách trong môn phái. Hắn vừa muốn che mắt thiên hạ, vừa muốn tạo cái gì đó của riêng mình nên đổi tên Phục Long Phái thành Liên Hoa Bang, từ đó không ngừng bành trướng thế lực, trước là chấn hưng môn qui, sau là gia tăng việc làm ăn, chẳng mấy chốc Liên Hoa Bang thành cái tên nổi tiếng nhất trong miền Nam, tổng đàng tức khắc được đưa vào Sài Gòn, trung tâm của mọi trung tâm giàu có.

Gia đình Trang từ lúc lui về Bắc sinh sống, tưởng chừng như đã yên ổn, nhưng không ngờ mười năm sau tung tích bị bại lộ, Lưu Bạch Phong lại một lần nữa đích thân dẫn người tới nhà của Trang. Lúc đó Trang mới tròn một tuổi, còn đang nằm trong lòng mẹ.”

Võ Tài nhổm dậy nói: “Hắn đúng là độc ác, chẳng lẽ ngay cả anh trai ruột của mình mà hắn cũng không thể chừa cho được một con đường sống hay sao mà phải đuổi cùng giết tận như vậy!”

Thằng Long đệm vào: “Đúng là vừa ác vừa đểu, không bằng con chó!”

Thằng Điệp nhận xét: “Có lẽ lão sợ hậu hoạn sau này, diệt cỏ phải giết tận gốc tận rễ chứ.”

Trang Nhi sụt sùi muốn khóc, nhưng cố kìm lại nói tiếp: “Có lẽ hắn cũng không truy lùng cha Trang gắt như vậy nếu như cha không giữ một thứ.”

Cả ba thằng đồng thanh hỏi: “Là thứ gì?”

Trang Nhi nói: “Là một nửa cuốn ‘Nội Công Tâm Pháp Lưu Gia’”

Nàng nói xong thì một dấu hỏi to đùng hiện lên trên mặt cả ba thằng, nàng lại giải thích: “Võ công Lưu Gia nhà Trang truyền qua nhiều đời, học thuật hết sức thâm thúy. Kinh nghiệm luyện công các đời Lưu Gia được đúc kết trong ba cuốn sách: Nội Công Tâm Pháp, Võ Pháp, Ảo Ảnh Chưởng Pháp. Cuốn Võ Pháp viết về võ công binh khí các loại, cuốn này cũng không có gì đáng nói. Nhưng hai cuốn còn lại chỉ cách luyện tập bộ Ảo Ảnh Chưởng Pháp mới thật sự là báu vật. Mấy người có nghe tới bộ chưởng pháp này không?”

Võ Tài nói: “Tài có nghe cha nói. Cha bảo xét về chưởng pháp, đứng đầu là Âm Dương Chưởng Pháp của Huỳnh Gia, xếp ngay phía sau là Ảo Ảnh Chưởng Pháp của Lưu gia. Năm đó nội của Tài dùng Âm Dương Chưởng Pháp đấu ngang ngửa với Ảo Ảnh Chưởng Pháp của nội Trang, như vậy đủ biết nó lợi hại tới cỡ nào.”

Trang Nhi gật đầu nói: “Cuốn Nội Công Tâm Pháp hướng dẫn hành công cơ bản để luyện tập những chiêu thức và chưởng lực cho cuốn Ảo Ảnh Chưởng Pháp. Thiếu nó thì cũng giống như đào hồ mà không có nước, càng luyện càng khô, càng đào càng thấy đá. Ai thiếu nội công tâm pháp mà vẫn cố luyện bộ chưởng pháp này thì tức là tự diệt. Cha Trang trước lúc trốn đi đã xé một nửa cuốn sách nội công mà trốn, cho nên mới bị Lưu Bạch Phong lùng bắt dữ như vậy.

Tên Lưu Bạch Phong đoạt được một nửa cuốn nội công tâm pháp, biết như vật thì không đủ để luyện môn Ảo Ảnh Chưởng kia. Nhưng hắn tính tình tự cao tự đại, cho rằng người xưa có thể nghĩ ra được cách hành công, thì hắn cũng có thể nghĩ ra được, cho nên hắn dựa vào nửa cuốn sách còn lại mà viết ra phần bị thiếu. Kết quả thế nào chắc mấy người cũng đã biết. Nội Công Tâm Pháp Lưu gia truyền qua bao đời, qua bao kỳ nhân mới hoàn thiện, hắn là ai mà đòi một sớm một chiều có thể viết ra được. Hắn theo cách hành công do mình tự nghĩ ra đó mà luyện Ảo Ảnh Chưởng Pháp, kết quả là tự đả thương lục phủ ngũ tạng, chân khí tán loạn, tóc trở nên trắng như tuyết, sống chết chỉ còn trong vòng mười năm nữa.”

Võ Tài thầm nhủ trong đầu: “Ra là như vậy. Mẹ bảo Lưu Bạch Phong vì luyện môn võ công tà phái mới bị nội thương, không ngờ là do hắn luyện không đúng cách.”

Thằng Long buông ngay ra một câu chửi: “Đúng là đáng chết!”

Thằng Điệp lại nói: “Chuyện sau đó thế nào, hắn có lấy lại được nửa quyển nội công không?”

Trang Nhi kể tiếp: “Nửa quyển nội công đó cha Trang trong lúc trốn chạy đã làm thất lạc. Hắn tìm đến nhà Trang đòi sách, cha Trang không có giao ra, nên hai bên lại đánh nhau. Kết quả thế nào thì chắc không cần phải nói nữa. Cha mẹ Trang cùng nhiều thuộc hạ đều chết thảm dưới tay hắn. Chú Sáu cùng một số anh em liều chết mang theo Trang trốn theo đường núi mà chạy, từ đó bôn ba khắp nơi, mai danh ẩn tánh, trốn tránh sự truy lùng của Liên Hoa Bang, vì Lưu Bạch Phong vẫn nghĩ rằng nửa quyển nội công chắc chắn đang trong người Trang.

Hắn ta luyện theo pháp môn do tự hắn nghĩ ra, tuy không luyện thành Ảo Ảnh chưởng pháp, nhưng lại luyện ra được một thứ công phu lai tạp vô cùng lợi hại và kì quái. Cha Trang vốn đã là bậc cao thủ, giao đấu với hắn chỉ chưa tới hai chục chiêu đã bị hạ sát. Từ đó đến nay đã gần hai mươi năm trôi qua, công phu của hắn chắc còn cao cường hơn xưa rất nhiều.”

Võ Tài nói: “Chẳng trách hắn dám hạ cả chiến thư thách đấu cha của Tài.”

Trang Nhi lại nói: “Chú Sáu đưa Trang lang bạt khắp nơi, tới đâu cũng sợ người bị người ta phát hiện. Cuộc sống lúc nhỏ thật lúc nào cũng như ngồi trên đống lửa, không ngày nào được yên. Chỉ cần có một chút nghi ngờ là chú đưa Trang trốn sang nơi khác ngay. Trải qua mười mấy năm nữa sự việc mới tạm lặng xuống. Chú đưa Trang về Sài Gòn sống, cũng là để tìm cách báo thù cho cha và cho hàng chục mạng người đã bị Lưu Bạch Phong giết năm đó.”

Thằng Điệp thở dài nói: “Thật tội cho Trang!”

Võ Tài hỏi: “Vậy sao cuối cùng Trang lại bị lộ?”

Trang Nhi nghe hỏi vậy thì nước mắt nước mũi lại trào ra, mãi một lúc mới nín lại được mà kể tiếp: “Là do Trang hồ đồ. Hôm qua đi học về, Trang trông thấy xe của tên Lưu Bạch Phong, đi theo hắn còn có hai chiếc xe khác tháp tùng, chúng đi về hướng quận 1. Lúc đó không hiểu sao trong Trang bỗng trào lên cảm giác hận thù và tức giận khôn tả, dù chú Sáu đã dặn dò Trang không biết bao nhiêu lần rằng dù thế nào cũng không được manh động, tuyệt đối không thể để lộ dù chỉ một chút về thân phận mình. Nhưng lúc đó chẳng hiểu sao Trang lại quay xe bám theo hắn, chỉ là bám theo vậy thôi chứ Trang cũng không biết là bám theo để làm gì. Cuối cùng Trang bị một tên trong số chúng phát hiện, kẻ đó chính là Đông Sứ Huệ Hoa. Xe hắn đi sau cùng, qua kính chiếu hậu hắn biết Trang đi theo nên dừng lại. Trang khi đó hoảng hốt vô cùng, trước giờ Trang chưa bao giờ phải đối mặt với những chuyện như vậy, cho nên rất luống cuống, toan quay đầu xe bỏ chạy. Nhưng làm thế càng khiến hắn nghi ngờ. Cuối cùng Trang bị hắn bắt ngay giữa đường. Hắn đưa Trang đến một công viên gần đó tra hỏi.”

Thằng Long thốt lên: “Thật quá nguy hiểm!”

Võ Tài giọng đầy quan tâm hỏi: “Chúng có làm gì Trang không?”

Trang Nhi lắc lắc đầu nói: “Trang không nói gì cả, mặc cho bọn chúng có hỏi gì.”

Thằng Điệp nói: “Trang mà im lặng thì càng khiến chúng nghi ngờ.”

Võ Tài nói: “Đúng vậy! Sao Trang không bịa ra lí do gì đấy, có vô vàn lý do cho việc chạy theo một chiếc xe hơi giữa đường phố đông đúc mà.”

Trang Nhi nói: “Trang biết chứ. Tên Đông Sứ Huệ Hoa, cùng với 4 tên sứ giả khác là tay sai thân tín của Lưu Bạch Phong, năm đó cũng có mặt trong cuộc tàn sát gia đình nhà Trang. Trang nghĩ tới điều đó nên căm phẫn vô cùng, trong lòng chỉ muốn một dao đâm chết hắn. Lúc đó nếu có nói gì với hắn thì chỉ có thể là những lời nguyền rủa mà thôi. Hắn thấy Trang không nói gì, ban đầu còn nghĩ là Trang bị câm, và là một kẻ hiếu kì chạy theo xe ô tô đẹp ngoài đường thôi. Và có lẽ hắn đã thả Trang ra nếu như không nhìn thấy thứ này.”

Cả ba đứa trố mắt ra nhìn xem rốt cuộc thứ này là thứ gì.

Trang Nhi nhẹ nâng mặt dây chuyền nàng đeo ở cổ lên cao một chút cho cả ba nhìn thấy. Đó là một sợi dây chuyền bằng vàng lóng lánh. Mặt dây chuyền là một hình thù nho nhỏ hơi kì lạ, một nửa giống cây bút, một nửa giống cây kiếm, chạm khắc rất tinh xảo, ít thấy có đồ trang sức nào của con gái mà lại trông như vậy.

Thằng Long nói: “Mặt dây chuyền đẹp đấy, Trang mua ở đâu mà có hình độc quá vậy.”

Thằng Điệp tinh ý hơn nói: “Mặt dây chuyền này có ý nghĩa gì ư?”

Trang Nhi gật gật đầu nói: “Phải! Đây là sợi dây chuyền của cha Trang. Trong dòng họ Lưu nhà Trang, chỉ có trưởng nam mới được phép đeo sợi dây chuyền này. Cái hình nửa bút nửa kiếm này biểu trưng cho văn võ song toàn. Năm đó cha Trang trước khi bị giết đã giao lại sợi dây chuyền cho chú Sáu, chú Sáu lại đeo cho Trang, như một sự nhắc nhở về mối thù giết cha không đội trời chung này.”

Võ Tài thốt lên: “Chú Sáu làm vậy quá mạo hiểm, sao lại đeo lên người Trang một vật nói rõ thân phận Trang như thế.”

Trang Nhi lắc đầu nói: “Tất cả là tại Trang. Chú Sáu có làm một mặt dây chuyền khác bọc bên ngoài mặt dây chuyền này để tránh bị phát giác, hơn nữa Trang luôn để nó bên trong áo, không ai có thể nhìn thấy. Nhưng số trời lại run rủi thế nào, đêm hôm trước Trang tháo cái mặt dây chuyền bên ngoài ra rồi quên gắn vào. Khi bị tên Đông Sứ bắt, cái mặt dây chuyền này chẳng hiểu thế nào lại không nằm bên trong áo, cho nên mới bị hắn nhìn thấy. Có lẽ số Trang đã tận nên mới xảy ra chuyện xủi xẻo như vậy.”

Võ Tài thở dài nói: “Đúng là trùng hợp!”

Trang Nhi lại nói: “Tên Đông Sứ thấy sợi dây chuyền thì quá nửa đã đoán ra Trang là ai. Hắn liền cất tiếng hỏi Trang ở đâu mà có sợi dây chuyền đó. Trang biết mình đã bị lộ, còn cần gì phải giữ bí mật, bao nhiêu căm hờn trong người trào lên, Trang mắng hắn một trận xối xả. Hắn chỉ cười sằng sặc, có lẽ bắt được Trang là điều vui mừng bất ngờ nhất trong đời của hắn. Hắn liền lệnh cho giải Trang về. Vừa lúc đó thì chú Sáu cũng tới.”

Võ Tài không nén được hỏi: “Chú Sáu tới ư, thật kịp lúc. Nhưng làm sao biết mà tới đúng lúc như vậy.”

Thằng Long cũng hỏi: “Phải đấy! Bộ hai chú cháu nhà Trang có thần giao cách cảm à?”

Trang Nhi trả lời: “Không phải thần giao cách cảm gì. Chú Sáu là người rất cẩn thận và tinh ý. Cuộc sống trốn chạy lại càng làm cho giác quan của chú nhạy bén hơn. Mỗi ngày ba lần vào những thời gian cố định Trang phải gọi điện cho chú để báo chú biết Trang đang ở đâu, làm gì. Trang chưa bao giờ dám quên điều đó. Không những thế, điện thoại của Trang có hệ thống GPS để bất cứ lúc nào chú cũng có thể tìm thấy Trang, thời buổi công nghệ thông tin mà. Trưa nay vào lúc lẽ ra Trang phải gọi cho chú để báo là Trang đi học về thì Trang đã không gọi, sau đó chú gọi Trang cũng không trả lời. Chỉ cần như vậy thôi thì chú đã có thể cho rằng Trang đang gặp nguy hiểm, và lập tức dựa vào bộ định vị tìm thấy Trang, cùng lúc tên Đông Sứ muốn đưa Trang đi.”

Thằng Long thở ra một hơi nói: “Chú Sáu cẩn thận vậy đúng là không thừa chút nào!”

Trang Nhi lại nói: “Chú Sáu và tên Đông Sứ đánh nhau kịch liệt. Tên Đông Sứ nhận ra chú là thuộc hạ thân tín của cha Trang ngày đó, là kẻ đứng đầu trong danh sách truy nã của Liên Hoa Bang, lại càng quyết bắt bằng được cả hai người bọn Trang về. Cũng may chú Sáu đưa Trang chạy thoát được. Sự việc về sau thế nào, thì mọi người đã biết rồi đó. Bọn Liên Hoa Bang kéo tới nhà Trang, rồi chúng ta chạy tới chỗ này.”

Nói tới đó nàng òa khóc: “Không biết giờ này chú ấy ra sao. Chú coi Trang còn hơn con đẻ, nếu chú có mệnh hệ gì thì Trang làm sao sống được, làm sao tha thứ cho bản thân mình được.”

Tiếng khóc của nàng làm ba đứa con trai đương tuổi biết yêu bối rối, nửa buồn bã, nửa thương xót. Nhất là Võ Tài, nó ước giá có thể nó sẽ làm mọi điều để xoa dịu cho nàng.

Thằng Long dường như không chịu được cái cảm giác ấy, hơi lớn tiếng bảo: “Trang đừng khóc nữa, khóc lóc bối rối vãi cả ra.”

Thằng Điệp tiện thể nói tiếp: “Phải đấy Trang. Điệp tin chú Sáu giỏi như vậy, chắc chắn sẽ có cách thoát thân. Hoặc trường hợp tệ nhất thì cũng chỉ bị Liên Hoa Bang bắt giữ thôi, sớm muộn chúng ta cũng sẽ cứu chú ấy ra được.”

Trang Nhi hơi nín lại, sụt sùi nói: “Trang cũng mong như vậy. Trước giờ mọi việc Trang làm đều do chú ấy sắp xếp, thiếu chú ấy Trang quả thật không còn biết phải làm gì nữa. Trước mắt Trang phải sống thế nào đây!”

Thằng Điệp nói: “Phải rồi, trước mắt phải làm thế nào. Bọn người kia làm sao chịu bỏ qua cho Trang, chắc chắn chúng sẽ lục tung cả thành phố này lên để tìm Trang.”

Võ Tài nãy giờ đã suy nghĩ tới chuyện này, cuối cùng nói: “Chỉ còn một cách thôi. Trang bây giờ không nơi nương tựa, tình hình chú Sáu thế nào chúng ta cũng chưa rõ. Trước mắt Trang hãy về nhà Tài ở Long An lánh tạm, đó là nơi duy nhất bây giờ bọn Liên Hoa Bang không làm gì được.”

Thằng Long tán đồng ngay: “Phải đấy, Trang vào trong phủ của Huỳnh Gia mà sống, đố tên Lưu Bạch Mã hay Bạch Tạng gì đấy dám mò tới kiếm chuyện.”

Thằng Điệp cũng ủng hộ: “Trước hết, đó là nơi tốt nhất Trang có thể ở.”

Nhưng Trang Nhi vốn là con gái, nàng tỏ ra e ngại, cái e ngại vốn luôn có ở những cô gái: “Nhưng làm thế, chẳng phải gây phiền phức cho Tài với hai người quá sao.”

Thằng Điệp nói: “Có cái gì mà phiền phức chứ. Chưởng môn là người rất trượng nghĩa, biết chuyện của Trang, chắc chắn sẽ cưu mang Trang, dù là cưu mang hết đời.”

Võ Tài nói: “Giờ không phải lúc để ngại ngùng. Ngay bây giờ chúng ta bắt xe về Long An, ở đây thêm chút nào là nguy hiểm chút đó. Về dưới lo liệu xong rồi, bọn Tài sẽ lên thành phố, nghe ngóng tin tức của chú Sáu. Nhất định phải biết giờ chú ấy thế nào.”

Trang Nhi đành gật gật đầu ưng thuận. Ba người vẫy một chiếc xe khách, trong đêm quay về Long An.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
0,0
Bản sắc anh hùng

Chương 30: Án mạng ở Huỳnh Phủ



Quận 1, trung tâm của mọi trung tâm sầm uất tại Sài Gòn, là hạt nhân rực rỡ của một đô thị phồn hoa, là đầu não của một gã khổng lồ. Nơi đây nó mới đích danh là Sài Gòn thật sự, thế giới của giàu sang, xa hoa, đắt đỏ. Người ta nhắc đến nó như điển hình của sự phung phí, là hiện thân của sự ăn chơi, là đẳng cấp của kẻ có tiền. Một căn nhà tại quận 1 thì vượt xa mọi căn nhà tại những nơi khác, uống một ly café tại quận một bằng uống ba ly tại những nơi khác, ngốn một đĩa cơm tại đây thì cũng thế. Nói chung, đây là nơi đốt tiền nhanh nhất, kẻ nghèo không dám bén mảng tới, người giàu cũng phải e ngại, chỉ có hàng gọi là đại gia mới thích tới đây thể hiện thực lực tài chính của mình. Tại đây câu nói tấc đất tấc vàng có thể hiểu theo đúng nghĩa đen, có khi tấc đất còn hơn cả tấc vàng.


Thế mà nằm đường bệ ngay một ngã tư giữa trung tâm của nó, nổi lên một tòa biệt thự to như ủy ban nhân dân thành phố. Dùng từ biệt thự có lẽ không đánh giá đúng tầm cỡ của nó, dùng từ lâu đài cũng chưa diễn đạt hết vẻ xa hoa của nó, nên dù muốn dù không, cũng phải công nhận nó là một tòa cung điện, một cung điện nguy nga nằm giữa những công trình phàm tục. Tòa cung điện bốn mặt tiền đó bao quanh bởi một khu vườn mà nếu dùng từ bình dân thì giống như một công viên, dùng từ chuẩn xác thì đúng là một ngự hoa viên. Cây lá trong vườn xanh tốt, hoa nở bốn mùa, những hòn giả sơn to như hòn núi nằm giữa những lòng hồ xanh ngắt, nước không khi nào cạn, hoa không khi nào phai. Vượt qua ngự hoa viên đó mới tới cung điện thật sự, một tòa nhà ba lầu với kiến trúc nửa tây nửa tàu độc đáo, vừa uy nghiêm mà vừa thanh tao, vừa tinh xảo mà cũng không kém phần oai vệ. Tòa cung điện đó chính là nhà riêng của bang chủ Lưu Bạch Phong, cũng là tổng đàng của Liên Hoa Bang. Đem so với tổng đàng của Thanh Long Bang, thật khác nhau một trời một vực.

Bao phủ cái ngự hoa viên quanh ngôi nhà đó ngoài cây xanh, hồ nước, hoa lá còn là các toán lính canh dày đặc, ngày đêm đứng gác. Chúng tỏa ra mọi ngóc ngách của khu vườn, đứng nghiêm trang như những pho tượng, mắt dõi bốn phía. Cộng thêm hệ thống camera lắp đặt hết mọi nơi, khu vườn trở thành một cấm địa bất khả xâm phạm, mức độ an ninh còn cao hơn cả doanh trại quân đội.

Bên trong căn nhà tình hình còn nghiêm ngặt hơn cả bên ngoài, ngoài bang chủ, con gái bang chủ, và một vài thuộc hạ thân tín được phép tự do ra vào, còn lại tất cả phải trải qua một loạt các cuộc khám xét, thăm hỏi mới vào được. Lưu Bạch Phong là kẻ hiếu học, nhưng hiếu học không có nghĩa là lương thiện. Hiếu học làm cho người lương thiện thêm lương thiện, làm cho người xấu xa thêm xấu xa. Trong nhà hắn cho xây một thư phòng rộng lớn, là nơi cất giữ mọi sách vở của Lưu gia nhà hắn truyền lại. Hắn luôn luôn ở trong đấy nếu như không phải đi đâu.


Lúc này cũng vậy, hắn đang ở trong thư phòng, mình mặc một tấm trường bào màu đen, luôn luôn là như thế. Tấm trường bào làm thân hình hắn trông phiêu lãng và màu sắc của nó làm nổi bật màu sắc làn da và mái tóc trắng không tì vết của hắn. Da hắn trắng, cái trắng của kẻ thiếu máu, nước da căng mọng, quá trẻ so với độ tuổi sáu mươi. Tóc hắn trắng, tuyền trắng, cũng lại quá già so với độ tuổi ấy. Mắt hắn sáng quắc, hàng lông mi cong vút như lưỡi kiếm, bờ môi đỏ mọng nổi bật trên nước da trắng như tuyết. Dung mạo hắn quả nhiên xinh đẹp, hệt như một thư sinh yếu đuối, chỉ duy vì trắng quá nên trông thành ra không có sức sống. Hắn giống như một bông hoa rực rỡ đang độ héo tàn.


Hắn đang đọc sách, một cuốn sách rất cũ, trông giống như đã bị ai đó xé mất một phần. Nét mặt hắn căng thẳng, có lẽ những điều trong sách làm hắn thấy khó hiểu, bàn tay hắn nắm chặt, có lẽ hắn tức tối, thân hình hắn hơi run, có lẽ cuốn sách làm hắn bấn loạn. Giữa lúc đó có tiếng gõ cửa khe khẽ bên ngoài, ba tiếng gõ cóc cóc cóc một nhịp liền nhau. Đó là cách gõ cửa của Ngũ Đại Sứ Giả, những thuộc hạ cấp dưới sẽ có kiểu gõ cửa khác.

Có thể nói gian thư phòng của Lưu Bạch Phong là một sự kết hợp xưa và nay rất hài hòa. Nó xưa vì được bài trí đúng với thư phòng của các quan văn thời phong kiến, hơn nữa số sách trong phòng toàn sách cổ của dòng họ truyền lại. Sự góp mặt của những sách thời nay khá lẻ loi và trống vắng. Lại nói căn phòng hiện đại vì được lắp đặt máy móc khá tinh vi, máy lạnh để giữ nhiệt độ phòng luôn ổn định tốt nhất cho sách, lại có máy quay để theo dõi, có hệ thống hút chân không trong trường hợp có hỏa hoạn, vân vân và vân vân. Lúc đó thì khuân mặt của người gõ cửa, qua máy quay hiện lên trên màn hình vi tính trên bàn của Lưu Bạch Phong, đó là Đông Sứ Huệ Hoa.

Lưu Bạch Phong bấm một cái nút nhỏ trên bàn, hai cánh cửa gỗ trên có chạm hình hoa sen đua nở trượt sang hai bên mở lối. Đông Sứ bước vào, hai cánh cửa lại trượt vào khép kín căn phòng. Gã Đông Sứ dáng người cao ráo, nét mặt phong trần, tóc hoa râm, mặc đồ theo phong cách hiện đại, áo sơ mi quần tây lịch sự. Gã cúi rạp người chào bang chủ.

Lưu Bạch Phong cất cuốn sách vào một ngăn nhỏ trong chiếc bàn, ôn tồn nói, giọng trong trẻo như thanh niên: “Chuyện thế nào?”

“Bẩm đã sắp đặt ổn thỏa, mọi việc vẫn đúng như những gì bang chủ đã dự liệu.”

“Tên trưởng phòng cảnh sát đó, hắn chịu nghe lời chúng ta chứ?”

“Hắn sao dám không nghe!”

Lưu Bạch Phong gật gật đầu, dấu hiệu của hài lòng: “Ngươi đánh giá tình hình thế nào?”

“Bẩm bang chủ, tình hình có phần phức tạp hơn chúng ta nghĩ.”

“Cứ nói!”

“Theo những gì tai mắt chúng ta nghe ngóng được, thì có thêm mấy thế lực nữa muốn xen vào đại sự của chúng ta lần này. Bọn chúng không biết đánh hơi từ đâu mà lại hay được chuyện Trấn Quốc Huyệt. Cho nên sắp tới, chúng ta ngoài đối phó với Thanh Long Bang, sợ sẽ còn phải lo liệu lũ ăn hôi chầu rìa này nữa.”

Lưu Bạch Phong nét mặt hơi nhăn hỏi: “Là những kẻ nào?”

“Thưa nổi bật nhất là bọn Thanh Long Bang.”

“Thanh Long Bang à, cái tên Yến Tùng này cũng thính tai tinh mắt đấy, chuyện cơ mật của chúng ta như vậy mà hắn cùng dò ra được. Thanh Long Bang không dễ đối phó, ngươi có tính toán gì không?”

“Thưa Bang chủ, trận tỉ đấu của ngài và Huỳnh Tiết sắp tới chắc chắn sẽ rất kịch liệt, tuy rằng ngài mười phần chắc chín sẽ thắng, nhưng không tránh khỏi hao tổn nguyên khí. Lão cáo già Yến Tùng theo như thuộc hạ suy đoán, nhất định đến lúc ấy sẽ ra mặt, muốn một tay hốt trọn kho báu.”

Lưu Bạch Phong bật cười khẽ: “Lại có chuyện dễ ăn thế sao!”

“Vậy nên theo thuộc hạ, chúng ta hãy giải quyết Thanh Long Bang trước, tránh để đến lúc đó chúng xuất hiện làm hỏng việc của chúng ta.”

“Giải quyết cách nào?”

“Ngại nhất chỉ có tên Yến Tùng, để bọn thuộc hạ phục kích đánh cho hắn một trận, dù hắn không chết thì cũng phải trọng thương, không gây phiền phức được.”

Lưu Bạch Phong giơ tay ngăn lại nói: “Yến Tùng không phải kẻ đơn giản, muốn đánh hắn không dễ thế đâu.”

“Vậy theo ý bang chủ?”

“Hắn muốn tới cứ để hắn tới, giăng sẵn một mẻ lưới, tiện thể dọn dẹp Huỳnh Gia, chúng ta sẽ thanh toán luôn cái Thanh Long Bang chướng mắt này.”

Đông Sứ cúi đầu đáp: “Bang chủ cao kiến.”

Lưu Bạch Phong lại nói: “Còn kẻ nào nữa không?”

“Bẩm, hình như cái tên Trần Lâm cũng muốn xía vào chuyện này.”

Lưu Bạch Phong ổ lên một tiếng hơi kinh ngạc nói: “Cái lão già chỉ còn một nửa cái mạng đấy mà cũng dám nhòm ngó vào chuyện của chúng ta sao!”

“Hắn nghĩ rằng chúng ta không biết. Bang chủ tính xử hắn thế nào?”

“Cứ để lão sống thêm ít bữa nữa. Biết đâu có thể dùng được.”
Đông Sứ cúi đầu đáp: “Vâng thưa bang chủ!”

“Còn người chúng ta cài vào Huỳnh Gia, tình hình thế nào?”

“Thưa mọi việc vẫn ổn thỏa, tình hình cũng chưa có gì đặc biệt.”

Lưu Bạch Phong gật gật đầu nói: “Từ giờ đến lúc tỉ đấu còn đúng hai tháng nữa. Ngươi lựa thời điểm thích hợp, rồi ra tay đi, đến lúc phải cho chúng biết mùi hoang mang.”

“Chuyện đó thuộc hạ sẽ ráng lo liệu, xin bang chủ yên tâm.”

Lưu Bạch Phong lại nói: “Đã có tung tích gì của hộp đen chưa?”

“Bẩm bang chủ, kể từ lúc để xổng hắn ở Long An, đến giờ vẫn chưa thấy hắn xuất hiện. Thuộc hạ đã cho người dò la khắp nơi, tin rằng sẽ sớm tìm thấy hắn thôi.”

Lưu Bạch Phong nói: “Hộp đen đó là thứ rất cơ mật, hắn ta nhất thời sẽ chưa thể làm gì được đâu, các ngươi phải nhanh chóng tìm cho ra.”

Đông sứ cúi đầu: “Vâng ạ!” Rồi lại nói: “Thế còn đại tiệc mừng thọ của chưởng môn, ngài có muốn nhắn nhủ gì thêm không?”

Lưu Bạch Phong nói: “Cứ làm như mọi năm, tổ chức linh đình một chút, để ta xem kẻ nào dám chống đối với Lưu Bạch Phong này.”

Đông Sứ cúi đầu lĩnh ý rồi ra ngoài.



Trời đêm se lạnh, gió se cay
Trăng khuya se bóng, mây tỏ bày
Một giấc mơ hoang, đời đã ngả.
Mấy kiếp anh hùng, há vụt tan.

Huỳnh chưởng môn viết tới đó thì khẽ gác bút,buông một tiếng thở dài, nét bút tung hoành trên khổ giấy trắng ngần, như hư như ảo. Bỗng có tiếng nói:
“Gần mười năm rồi hôm nay mới thấy huynh thủ bút, nét viết vẫn đầy hào khí như xưa!”
Đó là Huỳnh phu nhân, hai người đang ở riêng trong phòng. Bà đến sau chồng, đôi mắt long lanh nhận xét bức thư pháp còn chưa ráo mực.

Huỳnh chưởng môn đáp: “Phu nhân lại cười ta rồi!”

Bỗng Huỳnh phu nhân ngả vào lòng ông, khe khẽ nói: “Chàng lo lắng về vận mệnh Huỳnh gia ta sao?”

Ông vòng tay ôm vợ vào lòng nói: “Nàng lúc nào cũng rõ lòng ta, đời này ta có nàng bầu bạn, thật là ta có phúc. Ta chỉ sợ sự nghiệp bao nhiêu đời tổ tiên để lại bị hủy trong tay ta, như vậy ta dù có chết cũng không còn mặt mũi nào đi gặp liệt tổ liệt tông nữa.”

Huỳnh phu nhân ngúc ngoắc cái đầu trong lòng chồng, bà tuy đã có tuổi, nhưng nhan sắc một thời vẫn chưa hề phôi pha, nét đẹp của bà vừa mặn mà vừa kiêu sa, quý phái mà đoan trang, hơn hẳn người thường. Bà ngọt ngào nói với chồng: “Kiếp nay được làm vợ chàng, thiếp vậy là đã mãn nguyện. Huỳnh gia ta qua bao nhiêu đời, đối mặt với biết bao sóng gió, thiếp tin lần này chúng ta cũng sẽ vượt qua.”

Huỳnh chưởng môn đặt một nụ hôn lên mái tóc đen tuyền của vợ rồi nói: “Thời thế bây giờ đã khác, đối thủ của chúng ta cũng khác. Ta đã chuẩn bị cho mọi tình huống xấu nhất có thể xảy ra.”

Huỳnh phu nhân nghe tới đó giật nảy mình vội nói: “Thiếp tin rằng chàng sẽ thắng cái tên đó.”

Huỳnh chưởng môn nói: “Không phải đơn giản chỉ là chuyện thắng thua nữa đâu. Liên Hoa Bang thế lực che trời, chẳng lẽ lại đem thành bại buộc vào một trận đấu tay đôi hay sao. Nhất định chúng đã giăng sẵn một mẻ lưới lớn, quyết tiêu diệt Huỳnh gia chúng ta. Chuyện tỉ đấu, ta e chỉ là vẻ ngoài thôi. Nhưng dù là thế ta cũng sẽ làm hết sức để ngăn chúng lại.”

Huỳnh phu nhân biết chồng xưa nay không bao giờ nói lời nào mà không suy nghĩ, không lời nào nói ra mà lại sai, nhưng bà vẫn ngạc nhiên hỏi lại: “Chẳng lẽ là như thế sao?”

Huỳnh chưởng môn lại ôm vợ vào lòng, tay vuốt ve mái tóc bà nói: “Nàng thấy Võ Đức và Võ Tài, đứa nào thích hợp để kế nghiệp chưởng môn hơn, điều này ta vẫn còn đang băn khoăn. Theo lý thì phải truyền lại cho Võ Đức.”

Huỳnh phu nhân đáp: “Điều đó chúng ta hay bàn sau. Thiếp xin chàng đừng nói những chuyện không hay đó nữa, thiếp khôn muốn nghe.” Giọng nói của bà đã nghẹn ngào, chừng như muốn khóc.

Huỳnh chưởng môn trước giờ không sợ trời, không sợ đất, nhưng lại rất thương yêu vợ mình, chưa bao giờ làm trái ý bà, khi đó thấy bà sắp khóc, sao còn dám nói chuyện không vui, bèn bảo: “Được rồi, ta không nói mấy chuyện đó nữa, nàng đừng có khóc như vậy.” Nói rồi ôm vợ chặt hơn.

Chợt ngoài cửa vang lên tiếng gõ nhẹ. Đây là điều rất hiếm khi xảy ra. Không bao giờ có đệ tử nào dám làm phiền chưởng môn khi ông đã vào phòng, trừ khi có chuyện vô cùng cấp bách. Hai vợ chồng thoáng nhìn nhau, Huỳnh chưởng môn lên tiếng: “Có chuyện gì?”

Nghe tiếng lão bộc thưa: “Thưa chưởng môn, cậu ba về ạ, và nói có chuyện quan trọng muốn gặp người ngay.”

Huỳnh phu nhân nét mặt hoảng hốt vội nói với chồng: “Thằng Tài sao nửa đêm lại chạy về đây, chúng ta mau ra xem.”

Hai vợ chồng ra tới đại sảnh thì đã thấy bọn Võ Tài, thằng Điệp và thằng Long cũng với Trang Nhi đã ở đấy, ai nấy tơi tả. Huỳnh phu nhân chạy tới nắm tay con thốt lên: “Xảy ra chuyện gì thế này, mấy đứa có bị làm sao không?”

Võ Tài đáp: “Bọn con không sao mẹ ạ, nhưng có chuyện gấp nên chạy về đây ngay, không kịp gọi cho mẹ hay.”

Thằng Điệp và thằng Long vội cúi đầu chào sư phụ và sư nương, Trang Nhi cũng kính cẩn thi lễ.
Huỳnh chưởng môn an tọa nói: “Mấy đứa có chuyện gì ngồi xuống từ từ nói.”

Lúc đó thì tam đại quản gia cũng đã tới. Họ chào nhau một lượt xong cùng ngồi xuống ghế.

Trang Nhi ngồi cạnh Võ Tài, nàng khép nép cúi mặt, tỏ ra rụt rè. Võ Đức cười nói với nàng: “Em gái đừng sợ, nơi đây không có ai làm hại em đâu.”

Trang Nhi nhìn Võ Đức gượng cười gật đầu một cái đáp lễ.

Kế đó Võ Tài mang chuyện của Trang Nhi ra thuật lại tỉ mỉ cho cả nhà cùng nghe. Ai nấy vừa kinh ngạc vừa bồi hồi.

Huỳnh phu nhân nói với Trang Nhi: “Không ngờ con lại có thân thế lớn như vậy!”

Nàng gật đầu đáp lại, không biết trả lời sao.

Lý Nguyên đứng lên cung tay làm lễ với sư phụ sư nương rồi bước tới gần Trang Nhi nói: “Em gái có thể cho ta xem sợi dây chuyền đó không?”

Trang Nhi ngoan ngoãn nghe lời, gật đầu một cái rồi tháo sợi dây chuyền trên cổ đưa cho Lý Nguyên. Lý Nguyên chăm chú quan sát mặt dây chuyền có hình nửa bút - nửa kiếm đó, rồi lại đưa lên cho chưởng môn cùng sư mẫu nhìn qua. Huỳnh chưởng môn nói: “Đúng là huy hiệu của Lưu Gia. Ngày đó chính ta cũng thấy Lưu Quang Hổ đeo trên cổ thứ này, huy hiệu này tên gọi là “Bút Kiếm”

Lý Nguyên nói: “Theo đệ tự nhận xét, kỹ thuật chế tác món trang sức này rất tinh xảo, dựa vào màu sắc của nó có thể khẳng định nó đã có từ ít nhất mấy trăm năm nay.”
Nói rồi đưa trả lại cho Trang Nhi, Trang Nhi kính cẩn đón lấy.

Lý Nguyên lại nói: “Ta đây tuy ngu muội, nhưng cũng được nghe nói rằng truyền nhân của Lưu Gia, ngoài sợi dây chuyền này là vật chứng ra, thì còn có một bài thơ bốn câu đi kèm nữa, chỉ các đời truyền nhân mới truyền lại cho nhau bài thơ đó. Em gái liệu có thể mở mang tầm mắt cho ta không.”

Võ Tài liền lên tiếng: “Tam sư huynh à, huynh nói vậy là không tin Trang Nhi sao?”

Huỳnh Chưởng môn khẽ nói: “Con cứ ngồi yên đấy.”

Trang Nhi mạnh dạn đáp: “Thật ra đó không phải là một bài thơ bốn câu như anh nói, đó chỉ là hai câu thơ thôi. Hai câu thơ đó là:

“Nghiệp bút nghiên lấy thanh cao làm trọng
Nghiệp binh đao lấy nghĩa khí làm đầu.”

Huỳnh phu nhân và Huỳnh chưởng môn lại nhìn nhau khẽ gật đầu. Lý Nguyên đã thử nàng như thế, đoan chắc thân phận của nàng nếu là giả chắc chắn đã bị bại lộ.

Huỳnh phu nhân nói: “Từ nay con cứ ở lại Huỳnh Gia ta. Kẻ thù của con cũng là kẻ thù của chúng ta, nợ máu của con chúng ta nhất định sẽ trả giúp. Huỳnh gia ta còn, sẽ không ai có thể đụng được vào con.”

Huỳnh chưởng môn cảm khái nói: “Lưu Quang Hổ tuy là phường phản loạn, nhưng võ công lẫn hào khí ngất trời, một lời đã nói nặng tựa thái sơn. Chỉ tiếc… chỉ tiếc… không ngờ lại có đứa con như vậy. Bấy lâu ta vẫn cứ nghĩ người như ông ta sao lại có thể không làm trọn lời hứa, thì ra sự tình là thế.”

Trang Nhi xúc động ứa nước mắt, vội quỳ rạp xuống đất mà lạy tạ vợ chồng Huỳnh chưởng môn. Huỳnh phu nhân đỡ Trang Nhi dậy, ngay từ đầu bà đã có mối thiện cảm với nàng.

Ngay lúc đó bên ngoài bỗng vẳng tới tiếng tru của một con sói. Một âm thanh rất lạ, lạ không phải vì tiếng tru của con sói đó có vấn đề gì, mà lạ vì ở giữa nơi đồng bằng bát ngát ruộng lúa này thì ở đâu ra mà lại có sói. Tiếng tru ngân dài, lan tỏa trong đêm rồi từ từ chìm khuất.

Huỳnh chưởng môn nheo mắt nói: “Là con Đại Khuyển của ngươi phải không?”

Lý Nguyên vội bước lên đáp: “Dạ sư phụ, đúng là tiếng tru của nó!”

Võ Tài nói: “Có chuyện gì mà Đại Khuyển tru dài như vậy, trước giờ chưa bao giờ nghe?”

Lý Nguyên nói: “Đệ tử nuôi con Đại Khuyển từ nhỏ, chỉ có một lần duy nhất nghe thấy nó tru như thế, đó là lúc… lúc mẹ nó chết!”

Câu nói của Lý Nguyên làm mọi người cảm thấy bất an. Huỳnh phu nhân nói: “Chúng ta mau ra xem có chuyện gì.”

Huỳnh chưởng môn dẫn đầu, tất cả vội vã đi như chạy về phía cổng lớn của phủ Huỳnh Gia. Từ đại sảnh ra cổng lớn phải băng qua một cái sân rộng, gọi là hậu viên, qua nhà khách, đi hết một vườn hoa, rồi qua chính đường, lại băng qua một sân rộng nữa gọi là tiền viên mới tới cổng. Bên ngoài trăng sáng treo cao, cảnh vật chìm khuất, dọc các dãy hành lang trong phủ đèn mờ tỏa bóng. Tiền viên có đèn thắp sáng ngày đêm, ngay phía trước là cổng lớn. Con Đại Khuyển vẫn đang đứng dưới cổng, dáng điệu lầm lì chăm chú nhìn vào thứ gì đó. Từ xa tất cả đã thoáng nhìn thấy đó là một hình người, có ai đó đang nằm dưới đất. Khi tới gần ai nấy kinh hãi nhận ra là xác của lão Thất, lão quản gia lâu đời trong phủ. Lão nằm bất động, úp người xuống đất.

Huỳnh chưởng môn tức thì cúi xuống lật người lão dậy. Ai nấy giật mình, dưới ánh đèn lờ mờ pha lẫn với ánh trăng lành lạnh chỉ thấy khuân mặt lão xám xịt như bôi tro, cặp mắt trắng nhã mở trừng trừng. Huỳnh chưởng môn đặt tay vào cổ lão bắt mạch, rồi buông một tiếng thở dài nói: “Lão Thất chết rồi!”

Ông lại nói: “Trần Hãn, mau đến phòng Cindy Linh xem con bé có sao không. Ở đó trông chừng nó.”

Trần Hãn dạ một tiếng phóng đi.

Những luồng cảm xúc lẫn lộn bỗng chốc trào lên trong mỗi người có mặt. Lão Thất đã sống trong Huỳnh Gia từ những ngày còn trẻ, lão không vợ, không con, tận tụy trung thành hầu việc trong phủ, trước giờ Huỳnh gia luôn xem lão là người nhà. Ai nấy cảm thấy bi phẫn, là kẻ nào đã gây ra chuyện này. Ai lại nỡ ra tay gia hại một người không có võ công như thế.

Huỳnh phu nhân rơi lệ, tam đại quản giả đồng loạt buông tiếng thở đau lòng quay mặt đi, không lỡ nhìn tử trạng thê thảm của lão Thất. Thằng Điệp với thằng Long nhìn nhau ngậm ngùi, Trang Nhi đưa hai tay lên che mặt, giấu đi nét bàng hoàng của mình. Riêng Võ Tài là đứa có tình cảm hơn cả đối với lão, vì từ bé nó đã được lão chăm sóc. Nó không cầm được đau lòng, thét lớn tên lão rồi lao xuống toan ôm lấy xác lão mà khóc. Nhưng Huỳnh chưởng môn đưa tay cản nó lại, lặng lẽ nói: “Lão Thấy bị trúng độc mà chết, không thể chạm vào xác được.”

Nó chỉ còn biết sụp xuống khóc thương. Trang Nhi từ phía sau đỡ nó dậy, nàng kín đáo nắm lấy tay nó dìu về phía sau, không nói một lời nào.

Huỳnh phu nhân nén đau buồn hỏi, giọng chất chứa sự phẫn nộ: “Ai đã giết lão ấy, là ai?”

Lý Nguyên bước đến gần, cẩn thận quan sát trên tử thi, lại quan sát mọi thứ xung quanh. Chung quanh không có gì bất thường. Bỗng mắt hắn hơi nheo lại như thấy gì đó. Hắn cúi xuống, lấy trong người ra một tấm khăn lụa màu trắng tinh, rồi dùng chiếc khăn nâng cằm tử thi lên. Quả nhiên yết hầu lão Thất bị hai mũi kim mảnh như sợi chỉ đâm lút vào, nếu không tinh mắt không thể nhìn ra. Hắn lại dùng khăn trắng rút hai sợi kim đó ra. Hai sợi kim dài bốn phân, mảnh như sợi tóc, nhưng làm bằng thứ kim loại rất cứng. Ai nấy cũng chăm chú nhìn vào đó.

Võ Đức lên tiếng: “Là ám khí sao! Lão Thất trước giờ ăn ở hiền lành, võ công không biết, cũng chẳng giao thiệp với người ngoài, sao lại có người dùng ám khí ra tay hạ sát lão như vậy?”

Huỳnh phu nhân tiếp lời: “Lẽ nào lại là Liên Hoa Bang!”

Lý Nguyên cẩn thận dùng khăn gói hai cây kim lại đưa cho chưởng môn, sư mẫu cùng mọi người quan sát, cuối cùng cất vào người. Hắn nói: “Theo ý đệ tự, trên người lão Thất không hề có thương tích nào, có thể nói nguyên nhân cái chết chính là do hai cây kim này.”

Võ Tài nói: “Tam sư huynh, có đoán được là ám khí của ai không?”

Lý Nguyên lắc đầu nói: “Thời buổi bây giờ không còn giống ngày xưa nữa. Ngày xưa phân chia bang hội rất rõ ràng, mỗi bang mỗi phái đều có những món binh khí độc môn và thủ pháp sử dụng riêng, chỉ cần quan sát vết thương và binh khí thì quá nửa có thể đoán được hung thủ là ai. Nhưng giờ là thời hiện đại rồi, công nghệ phát triển, đâu còn như xưa, không thể nào có thể đoán được xuất xứ của hai cây kim này. Nhưng quan sát qua có thể thấy đây rõ ràng là món binh khí sở trường của kẻ chuyên dùng độc. Vả lại đệ tử thấy xung quanh cái chết của lão Thất có nhiều điểm nghi vấn.”

Huỳnh chưởng môn nói: “Ngươi cứ nói.”

Lý Nguyên cúi đầu lĩnh ý sư phụ rồi nói: “Thứ nhất là về tử trạng của lão Thất, thi thể lão vẫn còn ấm, các khớp xương vẫn còn co duỗi được, chứng tỏ chỉ mới chết tức thì đây thôi. Khi nãy tất cả chúng ta đều nghe tiếng con Đại Khuyển tru vang, đệ tử đoán nó đã thấy kẻ giết người, nên tru lên để báo động.”

Mọi người đều gật đầu đồng ý. Lúc đó con Đại Khuyển đang quấn quanh chân Lý Nguyên.
Hắn lại nói tiếp: “Thứ hai, từ lúc nghe tiếng tru của con sói đến lúc chúng ta ra tới đây chỉ chưa đầy năm phút. Trong thời gian ngắn như vậy mà hai mũi kim chỉ mảnh bằng sợi tóc này đã làm lão tắt thở, chứng tỏ chất độc tẩm lên kim là loại cực độc, thủ pháp tẩm độc cũng vô cùng tinh vi, kẻ tầm thường không thể làm được chuyện này.”

Mọi người lại gật đầu.

Lý Nguyên tiếp: “Điểm cuối cùng quan trọng nhất, đó là vị trí phóng kim. Lão Thất trúng kim ngay yết hầu, chứng tỏ kẻ ra tay phải đứng đối diện với lão. Thêm nữa, bình thường khi phóng ám khí, chúng ta thường chọn điểm nào trên cơ thể để ra tay?”
Võ Tài nói ngay: “Là vùng tim!”

Lý Nguyên nói: “Đúng thế, phóng ám khí vào vùng tim sẽ giết người nhanh nhất và chắc ăn nhất. Nhưng ở đây hắn lại phóng vào yết hầu. Tại sao như vậy?”

Trang Nhi bỗng lên tiếng: “Để nạn nhân không kêu lên được!”

Mọi người gật đầu.

Lý Nguyên tiếp: “Rất có thể như thế. Đệ tử đoán rằng lão Thất đã nhìn thấy ai đó. Kẻ đó đang làm một việc gì đó. Lão vừa định kêu lên báo động thì đã bị trúng ám khí. Mũi kim xuyên qua thanh quản, chất độc lan nhanh khiến lão cứng họng, cuối cùng nằm chết ở đây, còn hung thủ đã cao chạy xa bay.”

Huỳnh chưởng môn thở dài nói: “Âu cũng là số lão gặp xui xẻo, hôm nay lão đúng là vì Huỳnh gia chúng ta mà chết!”

Huỳnh phu nhân cảm thán nói: “Lão Thất, dù là kẻ nào đã ra tay hại lão, cả nhà họ Huỳnh chúng tôi trên dưới nhất định tìm ra hắn, báo thù cho lão. Lão ở dưới suối vàng xin hãy yên tâm!” Nói tới đây mắt bà sa lệ.

Mọi người ai nấy cảm thấy chua xót, thương thay cho lão bộc cả đời sống lặng lẽ mà cuối cùng lại phải hứng chịu cái chết thảm như vậy.

Võ Đức nói: “Vậy giờ chúng ta nên làm thế nào. Có nên báo cho chính quyền không?”

Lý Nguyên nói: “Thưa sư phụ, ý người thế nào?”

Huỳnh phu nhân căm hờn nói: “Nhất định là bọn Liên Hoa Bang gây ra. Phen này chúng ta nhất định không thể bỏ qua được.”

Huỳnh chưởng môn nói: “Chuyện này không được để lộ ra ngoài. Lão Thất chết do bệnh tuổi già. Lão ấy đã là quản gia cho phủ từ đời cha ta là Huỳnh Nhậm, trong phủ là bậc trưởng bối. Lão không con không cháu, không họ hàng thân thích, vậy ngày mai Huỳnh gia sẽ tổ chức tang lễ trọng thể cho lão. Các người mau đi chuẩn bị áo quan, niệm ngay trong đêm nay. Còn chuyện kẻ nào là hung thủ chúng ta sẽ xét sau.”


Sáng hôm sau gia phủ Huỳnh Gia treo cờ tang. Trên bảng cáo phó viết: “Một thân nhân của Huỳnh Gia đã qua đời.” Toàn thể môn sinh đều đến dự lễ. Bên trong, đích thân vợ chồng chưởng môn cùng tứ đại quản gia đeo tang trắng, đứng hầu cạnh quan tài. Nét mặt ai nấy u sầu, bà con xa gần vốn quý mến Huỳnh Gia, rất đông người tới thắp nhang cho lão Thất. Ai cũng cho rằng lão có quan hệ họ hàng thân thiết với Huỳnh chưởng môn. Huỳnh Gia là gia tộc rất có danh vọng, phía chính quyền cũng rất nhiều đoàn thể lớn nhỏ vì thế cũng cho người đại diện tới thắp hương, kính viếng. Suốt tang lễ không xảy ra sự cố gì. Ngày hôm sau Huỳnh gia dành một phần đất trong khu mộ gia tộc để chôn cất lão.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
0,0
Bản sắc anh hùng

Chương 31: Cái chết của lão Thất




Sau tang lễ thằng Điệp và thằng Long chia tay Võ Tài và Trang Nhi lên Sài Gòn trước, lo sắp xếp nơi ăn chốn ở mới. Còn Võ Tài trong lòng vẫn còn cảm thấy rất buồn nên nán lại Long An một vài hôm cho tâm hồn thư thả, cũng là để giúp Trang Nhi làm quen với cuộc sống ở đây. Buổi tối sau ngày chôn cất lão Thất, mọi người trong nhà lại tụ tập trong sảnh lớn bàn chuyện, ai nấy đều để tang trên ngực. Một bầu khí u buồn bao trùm tòa đại sảnh. Bình thường vẫn là lão Thất châm trà rót nước cho mọi người chu đáo rồi mới lui xuống, hôm nay Trang Nhi làm việc đó. Nàng nói không muốn chỉ ăn không ngồi rồi nên trong phủ làm được gì thì sẽ làm cái đó. Võ Tài biết tính nàng cương quyết, không cho nàng làm cũng không được. Còn Huỳnh phu nhân thì trong lòng thấy rất vừa lòng nàng.

Trang Nhi hầu trà xong thì lui về ngồi cạnh Võ Tài.

Huỳnh chưởng môn nói với nàng: “Con từ giờ cứ tạm ở đây, cứ xem nơi này như nhà mình, đừng ngại gì cả.”

Nàng lễ phép cúi đầu vâng lời.

Ông lại nói: “Cái chết của Lão Thất đối với Huỳnh gia chúng ta là một cú sốc lớn, vừa là nỗi đau thương, vừa là sự ê chề. Đường đường là một đại danh phái mấy trăm năm nay, lại để cho một kẻ lạ vào tận trong phủ ra tay giết người. Ta là chưởng môn tự cảm thấy xấu hổ bội phần.”

Những lời lẽ của chưởng môn làm ai nấy run sợ. Trước giờ chưa bao giờ thấy ông tỏ ra căm phẫn đến thế, những câu nói thế kia chứng tỏ tâm trạng ông nặng nề nhường bao, tựa như chính ông là kẻ đã để xảy ra cái chết cho người đầy tớ trung thành nhất của mình.

Đám đệ tự không ai dám mở mồm, đến Lý Nguyên là người nhanh nhạy nhất trong nhóm lúc đó cũng im thin thít. Cuối cùng chỉ có Huỳnh phu nhân dám lên tiếng: “Sư huynh đừng tự trách mình như thế, lão Thất chết ai trong chúng ta cũng phải có một phần trách nhiệm. Nhất định trận tỉ thí sắp tới phải giết được tên Lưu Bạch Phong, như vậy mới có mặt mũi nhìn lão.”
Huỳnh chưởng môn thở dài.

Lý Nguyên tiếp lời nói: “Sư nương nói phải lắm, chúng ta phải tìm ra hung thủ để lão Thất được an lòng.”

Võ Đức nói: “Lý đệ nói như vậy, chẳng lẽ cho rằng hung thủ không phải là Liên Hoa Bang sao?”

Trần Hãn hằn học nói: “Còn có thể là ai!”

Huỳnh chưởng môn nói: “Lý Nguyên, ý ngươi thế nào?”

Lý Nguyên đứng dậy, cúi đầu trước sư phụ rồi mới nói: “Quả thật ngoài Liên Hoa Bang ra thì chúng ta không có xích mích với ai cả. Nên khả năng hung thủ là chúng vẫn là lớn nhất. Thế nhưng đệ tử có một số điểm nghi vấn.”

Võ Tài nóng lòng nói: “Nghi vấn gì tam sư huynh?”

Lý Nguyên nói: “Nếu là Liên Hoa Bang, kẻ có đủ bản lĩnh đột nhập vào phủ chúng ta nhất định phải là một trong năm tên sứ giả. Dù là ai, một khi chúng ra tay giết người, chắc chắn sẽ để lại ám hiệu. Ví dụ như nếu là tên Đông sứ, hắn sẽ để lại một đóa huệ trắng. Nhưng ở đây chúng ta không thấy gì cả.”

Võ Đức nói: “Có thể do hắn vội bỏ chạy.”

Lý Nguyên nói: “Cũng có thể như vậy, nhưng cũng có thể không phải như vậy. Nếu đệ tử là tên Đông Sứ, thì đã phóng cho lão Thất một mũi kim vào tim rồi bỏ chạy, dù lão có kêu lên chúng ta cũng không thể bắt kịp hắn ta được. Cách đây mấy hôm chính hắn đã đả thương mấy đệ tử của ta, rồi ngang nhiên đệ lại danh tính để dằn mặt chúng ta. Vậy lần này theo lý mà nói hắn giết người của ta thì sẽ càng phải cho chúng ta biết. Vậy nên đệ tử nghĩ rằng, kẻ ra tay không muốn chúng ta biết hắn, hoặc là sợ chúng ta biết hắn.

Thử đặt ra một giả thiết thế này, toàn gia chúng ta đang nghị luận trong đại sảnh, kẻ đó nấp bên ngoài nghe lén thì bị lão Thất nhìn thấy. Lão Thất nhận ra hắn ta và định kêu lên, nhưng lời chưa ra khỏi miệng thì cổ họng đã bị hai mũi kim ghim vào. Độc tính phát tác khiến lão mất tự chủ, theo bản năng liền bỏ chạy về phía cổng lớn và gục tại đó. Con Đại Khuyển thấy lão chết, liền tru vang báo hiệu.”

Mọi người nghe Lý Nguyên phân tích đều gật đầu tán thành.

Cuối cùng hắn kết: “Vậy kẻ nghe lén chúng ta, nếu không phải là tên Đông Sứ thì có thể là ai? Những người chúng ta sắp xếp canh gác ngoài phủ đều là những đệ tử võ công cao cường, muốn vượt qua họ mà không để lại dấu tích gì có thể nói là không thể. Nhưng đệ tử đã hỏi họ rất kĩ, vào thời điểm xảy ra án mạng, tất cả bọn họ đều khẳng định rằng quanh phủ không có gì lạ. Vậy có hai khả năng thôi: một là kẻ đột nhập vào phủ võ công phải cực cao, lai vô ảnh, khứ vô thanh. Người như vậy e rằng ngoài sư phụ ra thì khó có kẻ thứ hai; hai là kẻ đó chính là đang ở trong phủ chúng ta!”

Huỳnh phu nhân nghe tới đó thì trợn mắt ngạc nhiên nói: “Ý ngươi là trong phủ có gián điệp!”

Lý Nguyên cúi đầu đáp: “Đó là đệ tử chỉ dựa vào những gì đã xảy ra mà suy đoán, không phải là khẳng định.”

Huỳnh phu nhân dường như không chấp nhận được điều đó tức tối nói: “Phủ chúng ta trước nay trên dưới một lòng, những người trong phủ không phải con cái thì đều là thân tín, ta tuyệt đối không tin có người lại rắp tâm phản bội.”

Võ Đức vội lên tiếng trấn an: “Mẹ! Đó là Lý đệ mới chỉ suy đoán thôi. Chưa chắc là thật mà. Chúng ta cứ bình tĩnh xét tiếp xem sao.”

Huỳnh chưởng môn nói: “Lý Nguyên nói rất có lý, không điều gì là không thể xảy ra. Ngươi cứ nói tiếp đi.”

Lý Nguyên cúi đầu lĩnh ý rồi lại tiếp: “Như sư mẫu cũng vừa nói, trong phủ chúng ta trên dưới không phải là con cái thì cũng là thân tín, đã sống với nhau bấy lâu, hoàn toàn có thể tin tưởng. Nhưng chúng ta không thể vì thế mà lơ là cảnh giác. Với lại hãy xem cách ra tay của hung thủ. Trong phủ chúng ta không ai có được bản lĩnh hạ độc cao cường như vậy. Vậy rất có thể đó là một người… một người vốn không thuộc về phủ chúng ta”. Lý Nguyên nói những lời đó có phần ngập ngừng, dường như hắn không muốn phải đưa ra những suy đoán ấy.

Trang Nhi liền đứng dậy nói: “Nếu nói vậy thì con là người đầu tiên vốn không thuộc về nơi đây.”

Võ Tài vội kéo tay nàng nói: “Trang Nhi! Lý huynh không phải có ý đó.”

Nàng nói: “Trang hiểu chứ, nhưng chúng ta đang phân tích để tìm ra hung thủ, mọi thứ cần phải rõ ràng.”

Lý Nguyên bật cười gật đầu nói: “Em gái nói phải lắm, khi suy đoán nhất định không được để tình cảm làm ảnh hưởng. Nhưng lúc xảy ra sự việc, em đang cùng mọi người ở đây trong đại sảnh, nên em nằm ngoài vòng nghi vấn.”

Huỳnh phu nhân liền nắm tay nàng nói: “Con cứ ngồi xuống, từ nay con sẽ thuộc về nơi này, nếu như con muốn.”

Trang Nhi không dám trái lời bà, ngoan ngoan ngồi lại chỗ cũ.

Võ Đức nói: “Nếu nói thế thì trong phủ chúng ta…” nhưng nói tới đây anh cũng cảm thấy có điều không ổn, nên hơi ngập ngừng, cuối cùng vẫn nói hết câu: “trong phủ chúng ta chỉ còn có một người thôi.”

Huỳnh phu nhân giật mình. Võ Tài sực nhớ ra nói: “Huynh muốn nói là…”

Huỳnh chưởng môn liền nói: “Trần Hãn, lúc đó ta sai ngươi đến phòng Cindy Linh xem con bé có an toàn không. Ngươi có thấy gì lạ ở phòng nó không?”

Trần Hãn đáp: “Thưa sư phụ, không có gì bất thường cả. Con bé vẫn ở yên trong phòng, khi đệ tử đến nó còn hỏi trong phủ có phải xảy ra chuyện gì hay không.”

Lý Nguyên liền cung tay cúi đầu nói: “Sư phụ quả thật liệu sự như thần, đệ tử thẹn không thể theo kịp.”

Lúc đó mọi người mới sực hiểu ra. Huỳnh chưởng môn là bậc cơ trí hơn người, những suy nghĩ của Lý Nguyên nãy giờ ngay khi thấy xác lão Thất ông đã nghĩ tới, nên lúc đó liền lập tức cho Trần Hãn tới chỗ Cindy Linh, vừa là để bảo vệ, vừa là để thăm dò. Nhưng ông thân là chưởng môn, trước nay không nói nhiều. Cho nên trong những cuộc nghị sự, ông vẫn để cho đệ tử thông minh nhất là Lý Nguyên nói, chỉ những khi nào cần thiết ông mới lên tiếng.

Huỳnh phu nhân nói: “Vậy không phải là con bé. Hơn nữa con bé từ nhỏ đã bị bệnh, sức khỏe rất yếu, tính tình nhút nhát. Có nói thế nào ta cũng không thể tin được nó là một sát thủ giết người không chớp mắt như thế.”

Võ Đức nói: “Vậy thì lạ quá, trong phủ chúng ta còn ai nữa đâu.”

Huỳnh chưởng môn liền nói: “Điều đó cũng vẫn chỉ là suy đoán thôi. Mọi người trong phủ cần phải cảnh giác hơn nữa, càng đến gần ngày tỉ võ, sẽ càng có nhiều chuyện xảy ra.”
Mọi người dạ ran.

Lúc đó có một người hầu chạy vào thưa: “Thưa chưởng môn, có khách xưng là Hoàng Y Kinh đợi ngoài cửa.”
Huỳnh chưởng môn nói: “Mau mời vào đây.”


Hoàng Y Kinh bước vào, hắn ăn vận sang trọng, kính cẩn hành lễ với Huỳnh chưởng môn.
Huỳnh chưởng môn vui vẻ nói: “Đã lâu không gặp đệ, mau ngồi xuống.”

Hoàng Y Kinh an tọa rồi nói: “Đệ nghe tin nhà ta có tang sự, nên từ nước ngoài bay về ngay, nhân tiện thăm con bé. Chẳng hay nhà ta ai đã mất.”

Huỳnh chưởng môn đáp: “Là lão quản gia trong phủ, lão ấy không vợ không con, không bà con thân thích, đã làm việc lâu trong Huỳnh Gia, nên ta đứng ra tổ chức tang lễ cho lão.”

Hoàng Y Kinh nói: “Sư huynh sống trọng tình trọng nghĩa như vậy, Hoàng mỗ thật cảm phục.”

Huỳnh chưởng môn cười nói: “Đó là việc nên làm mà. Hoàng đệ mọi sự gần đây vẫn ổn chứ.”

Họ Hoàng đáp: “Đệ gần đây đang ráng hết sức để kịp hoàn thành phương pháp trị liệu cho bé Linh, chỉ mong khi có thanh Hồng Huyền Kiếm rồi sẽ có thể thành công.”

Huỳnh chưởng môn nói: “Phần bản đồ đệ vẫn cất giữ cẩn thận đấy chứ.”
“Nó vẫn an toàn, xin huynh yên tâm, ngay khi huynh đoạt được phần bản đồ trong tay Lưu Bạch Phong, chúng ta sẽ ráp chúng lại với nhau. Phải rồi, con bé nó vẫn khỏe chứ?”

Huỳnh phu nhân đáp: “Con bé vẫn ổn, chỉ là nó không bao giờ ra khỏi phòng thôi.”

Hoàng Y Kinh thở dài nói: “Tội nghiệp con bé, từ nhỏ nó đã như thế, chỉ ở lủi thủi một mình. Đệ bận nhiều công việc cũng không có thời gian bên nó thường xuyên, nên nó đã quen với cuộc sống như thế. Sư huynh sư tỉ không quản phiền toái chăm sóc cho nó giúp đệ, đệ sẽ không bao giờ quên ơn.”

Huỳnh phu nhân nói: “Đừng nói đến chuyện ơn nghĩa nữa. Phải rồi, ta có chuyện này muốn phiền đệ một chút.”
“Sư tỉ có gì cứ nói.”

Huỳnh phu nhân liền liếc mắt ra hiệu cho Lý Nguyên. Hắn hiểu ý liền bước lên, lấy trong người ra hai chiếc kim tẩm độc vẫn còn được cuốn trong tấm vải trắng hai tay đưa cho Hoàng Y Kinh.

Huỳnh phu nhân nói: “Đệ xem có biết loại độc tẩm trên hai cây kim này không.”

Hoàng Y Kinh liền mở tấm khăn ra, đưa một cây kim lên mũi khẽ ngửi một cái, mặt nhăn lại, rồi ngửi thêm một lần nữa, rồi cẩn thận xếp khăn trả lại cho Lý Nguyên.

Lý Nguyên nhận khăn nói: “Hoàng sư thúc có phát hiện gì không?”

Hoàng Y Kinh ngồi xuống ghế, hớp một ngụm trà rồi mới nói: “Chất độc tẩm trên kim nếu đệ không nhầm thì đó là một thứ được gọi là Hắc Huyết.”

Huỳnh phu nhân ngạc nhiên hỏi: “Hắc Huyết, là máu của một thứ thằn lằn phải không.”

Hoàng Y Kinh đáp: “Chính xác thì là dịch tiết ra từ mật của nó. Thứ thằn lằn này tên gọi là Hắc Long. Loài này chỉ sống ở khu vực miền tây nam bộ nước ta, con lớn to bằng ngón tay cái, dài hai gang tay, da đen như hắc ín, là loài cực hiếm, nuôi cũng cực khó. Phải là bậc đại danh gia dùng thuốc họa may mới biết cách nuôi và dùng thứ này. Nó có thể coi là một loài dị chủng, máu có thể trị ung thư, tim có thể loại bỏ tiểu đường, da có thể chữa đau tim, xác chúng nếu phơi khô tán nhuyễn có thể trị được một loạt các chứng bệnh tai ác. Thế nhưng mật của nó lại là nơi chứa chất kịch độc, dính vào người có thể ăn mòn da thịt, ngửi thoáng qua có thể gây mê man, ngửi nhiều một chút có thể gây điên loạn, và nếu thấm vào máu, dù là một lượng cực nhỏ, sẽ lập tức giết người. Loài này bây giờ không còn biết ở đâu có nữa. Độc tố trong mật của nó phải 2 năm mới lấy được một lần, mỗi lần một lượng rất nhỏ, nhưng nếu lấy pha vào nước uống có thể giết chết cả một ngôi làng nhỏ. Trên thế giới ngày nay, tuyệt không thể tìm đâu ra một thứ độc nào mạnh đến thế.”

Võ Đức thốt lên: “Lợi hại đến thế sao”

Huỳnh phu nhân nói: “Là ai mà lại có được thứ độc này.”

Hoàng Y Kinh nói: “Theo đệ biết, từ trước tới giờ chỉ có ba người từng nuôi được nó. Người thứ nhất chính là sư phụ, thần y Bang Sơn. Người nuôi thứ này để làm thuốc chữa bệnh.” Hắn nhắc đến tên thầy, giọng điệu cung kính.

Huỳnh phu nhân nói: “Phải, ta cũng từng thấy qua cha ta có một con như thế”.

Hoàng Y Kinh lại tiếp: “Người thứ hai là Độc Vương lừng lẫy một thời Tám Hoành xứ Bạc Liêu. Hắn nuôi loài Hắc Long để nghiên cứu độc tính. Ngày trước thời chiến loạn, hắn đã từng hạ độc một lúc mấy ngàn lính Mỹ, giải cứu một số đông tù binh phe cộng sản. Về sau hắn bị bắn chết, không biết có để lại truyền nhân hay không.”

Huỳnh phu nhân nói: “Kẻ đó ta cũng biết, hắn là đại hành gia dùng độc, có thứ này cũng không có gì lạ. vậy kẻ thứ ba là ai.”

Hoàng Y Kinh nói: “Kẻ thứ ba chính là Năm Đồng Tử, cựu bang chủ của Thanh Long Bang.”
Cái tên Năm Đồng Tử làm tất cả đều ngạc nhiên.

Lý Nguyên vốn rất điềm tĩnh cũng phải thốt lên: “Là hắn ta ư. Hắn ta nuôi thứ này làm gì.”

Hoàng Y Kinh nói: “Có điểm này mọi người chưa rõ. Bộ môn công phu Đồng Tử Công của lão muốn luyện được nhất định phải dùng máu của loài thằn lằn này chế làm thuốc dẫn. Có như thế thì nội công kết hợp với tiên dược mới có thể khiến cho bộ môn công phu này giữ được vẻ thanh xuân đánh kinh ngạc cho lão ta.”

Mọi người lại thêm một phen ngạc nhiên.

Huỳnh phu nhân nói: “Lão Yến Tùng cũng luyện bộ môn công phu ấy, vậy thì nhất định cũng phải nuôi loài thằn lằn này. Lẽ nào kẻ ra tay với lão Thất lại liên quan tới Thanh Long Bang.”

Hoàng Y Kinh ngạc nhiên hỏi: “Sư tỉ nói vậy là sao, lão Thất là ai?”

Huỳnh phu nhân nói: “Không giấu gì đệ, lão quản gia của phủ ta là bị người ta dùng kim độc khi nãy giết chết.”

Hoàng Y Kinh nói: “Thì ra là vậy! Không ngờ bây giờ vẫn còn có người sử dụng món ám khí này. Hai cây kim khi nãy rất mảnh, có thể phóng nó xuyên vào da thịt người khác chứng tỏ kẻ ra tay hoặc nội công phải rất mạnh, hoặc thủ pháp phải cực kì điêu luyện.”

Huỳnh chưởng môn nói: “Chuyện giờ lại liên quan tới cả Thanh Long Bang, đây là một đại bang hội, từ sớm ta đã lo rằng họ nhất định sẽ xen vào chuyện này, bây giờ thì xem ra đúng là vậy rồi.”

Lý Nguyên nói: “Nếu đúng là Thanh Long Bang đã đột nhập vào phủ chúng ta và giết chết lão Thất, vậy có thể nói mục đích của chúng chắc không nhỏ. Tung tích về Trấn Quốc huyệt chỉ sợ đã lọt vào tai chúng.”

Huỳnh chưởng môn nói: “Trong Thanh Long Bang ngươi biết có những nhân vật nào lợi hại không.”

Lý Nguyên nói: “Thanh Long Bang ngoài bang chủ Yến Tung là nhân vật võ công cực cao ra thì đệ tử còn biết bốn kẻ nữa, gọi là Tứ Bất Tử.”

Huỳnh phu nhân ồ lên nói: “Tứ Bất Tử sao! nghe lạ quá.”

Hoàng Y Kinh nói: “Đệ cũng từng nghe qua cái tên này, chỉ biết chúng là thân tín của bang chủ Thanh Long Bang, võ công rất cao, ngoài ra cũng không rõ chúng như thế nào.”

Lý Nguyên nói: “Đệ tử cũng không biết nhiều, bộ Tứ Bất Tử này là Cuồng Phong, Chân Hỏa, Bạo Vũ và Thần Lôi. Về võ công thì không rõ cao thấp tới đâu, nhưng Thanh Long Bang có một bộ công phu Trận Pháp chấn môn gọi là Thanh Long Đại Trận. Trận pháp này tạo thành từ năm yếu tố gồm Phong, Hỏa, Lôi, Vũ và Long, chính là bốn kẻ đó, kẻ còn lại có lẽ là bang chủ hoặc một người nào đó. Lai lịch của Tứ Bất Tử chúng ta không rõ, nhưng chắc chắn không phải những kẻ tầm thường, nếu nói là sánh ngang với Ngũ Đại Sứ Giả của Liên Hoa Bang cũng không ngoa chút nào. Nếu kẻ đột nhập phủ chúng ta là người Thanh Long Bang, rất có thể là một trong bốn kẻ này.”

Huỳnh chưởng môn gật đầu nói: “Ta cũng nghĩ như vậy. Thanh Long Bang xuất hiện, sự tình lại càng phức tạp, chúng ta lại phải lo đối phó với chúng nữa.”

Lý Nguyên nói: “Trận tỉ đấu với Liên Hoa Bang lần này là một biến cố cực lớn trong giới võ thuật, không chỉ Thanh Long Bang mà hầu như mọi bang hội trong thiên hạ đều hay biết. Nhưng nguyên nhân sâu xa bên trong là Trấn Quốc Huyệt là một điều tuyệt mật. Thanh Long Bang cho người lẻn vào phủ, có lẽ là để nghe nghóng chuyện này.”

Hoàng Y Kinh thở dài nói: “Đối phó với Liên Hoa Bang thôi đã rất khó khăn, giờ lại thêm Thanh Long Bang nhảy vào. Thật rắc rối!”

Huỳnh chưởng môn nói: “Đến giờ cũng vẫn chỉ là suy đoán thôi, chúng ta cứ bình tĩnh xem chuyện gì xảy ra tiếp theo.”

Câu nói của Huỳnh chưởng môn như câu chốt, mọi người cũng không bàn thêm gì nữa. Hoàng Y Kinh xin phép đi thăm con gái, những người còn lại đều lui ra.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
0,0
Bản sắc anh hùng

Chương 32: Thù hoa



Chiều về nhuộm đỏ sắc hoàng hôn
Gió qua man mác lúa trên đồng
Sông xanh lặng lẽ xuôi con nước
Núi biếc âm thầm vẫn đứng trông

Bên trời nghiêng bóng cánh nhạn bay
Xa xa vẳng tiếng ếch kêu dày
Có phải đêm về, đêm nhức nhối
Nên chiều mới đượm nét đơn côi.

“Bài thơ hay lắm, buồn nữa! Mà Trang thấy giống như là đang tả cảnh chiều nơi đây.”

“Ừh, đúng là tả cảnh chiều nơi đây.”

“Là Tài viết sao?”

Võ Tài mỉm cười xác nhận: “Chỉ là thuận miệng đọc ra thôi, chứ có viết lách gì đâu.”

“Không ngờ người học võ như Tài mà tâm hồn cũng tinh tế thật.”

“Chiều hôm đó Tài cũng đi dạo trên đồng thế này, chỉ khác là lúc đó có một mình, còn giờ thì có Trang bên cạnh nữa.”

“Cảm giác có khác không?”

“Khác nhiều chứ! Cảnh chiều lúc đó và bây giờ vẫn vậy, vẫn úa vàng, vẫn vẳng tiếng ếch kêu, vẫn có gió man mác, vẫn thoáng bóng chim bay. Nhưng tất cả lúc đó với Tài có cái gì đó buồn buồn. Người ta vẫn bảo chiều buồn thật không sai. Tài đọc nhiều thơ viết về hoàng hôn, bài nào cũng đượm buồn cả. Tài nghĩ phải chăng vì cảnh chiều buồn thật nên mới khiến người ta cảm thấy buồn, hay bởi vì cảnh chiều chứa đựng ý nghĩa gì đó nên mới làm cho những người ngắm cảnh chiều cảm thấy buồn, thấy lặng lẽ.”

“Vậy Tài nghĩ đó là ý nghĩa gì?”

“Tài nghĩ là cảnh chiều cũng giống cuộc sống này vậy, đằng sau vẻ rực rỡ của buổi sáng, sự tấp nập của buổi trưa là sự lặng lẽ âm thầm của buồi chiều. Cuộc sống tuy xô bồ, tuy nhộn nhịp, tuy hào nhoáng, tuy xa hoa, nhưng ẩn sau tất cả nhưng điều đó chẳng phải là sự ảm đảm và khốc liệt của cuộc đời hay sao! Và sự ảm đảm và khốc liệt của cuộc đời, chẳng phải cũng do tâm hồn đen tối và sự tham lam ích kỉ của con người gây ra hay sao! Con người lao động làm cho cuộc sống phồn vinh, nhưng con người ích kỉ làm cho cuộc sống ra tăm tối. Người ta vất vả tranh đấu, giành giật lẫn nhau để rồi cuối cùng được gì, cũng lại âm thầm như buổi hoàng hôn này thôi.”

“Tài suy nghĩ vậy hay lắm!”

“Tài như vậy chắc giống ông già lắm phải không?”

“Trang lại thích những ông già như vậy đấy!” Nàng nói và cười thích thú.“Tài không giống như thanh niên bây giờ, sống quá thực tế và khô khan, lý tưởng của họ đã bị trào lưu thực dụng cuốn trôi, suy nghĩ của họ đã bị xã hội rối ren bóp méo, tâm hồn của họ đã bị dục vọng che đậy. Cái đẹp nhìn qua lăng kính của tiền bạc chỉ còn là cái đẹp bên ngoài, cái đẹp dối trá. Còn mấy ai thật sự dành tâm hồn đễ suy ngẫm cảnh chiều như thế này. Cho nên Trang không muốn quen ai cả, tất cả Trang chỉ thấy ghê tởm mà thôi, ai ngỏ ý định làm quen với Trang là Trang bỏ chạy ngay.”

Võ Tài mỉm cười nhìn nàng. Nàng cúi xuống ngắt một bông hoa màu trắng rực rỡ bên đường đưa lên ngắm nghía. Hai bên đường là đồng lúa xanh bạt ngàn, cuồn cuộn ngả nghiêng theo chiều gió. Con đường đất nhỏ hai người đang đi chạy xuyên qua cánh đồng tựa như cây cầu vắt qua biển cả. Phía sau là Phủ Huỳnh Gia uy nghi, phía trước là đồng lúa trải dài vô tận; bên trái, phía xa xa là những dải đồi thoai thoải nổi lên trên biển lúa xanh rì, uốn lượn chạy dọc theo con đường; bên phải, cuối chân trời là vầng dương đỏ rực xen kẽ vào những đám mây lờ lững đang chậm chậm khuất bóng, thổi vào không gian một thứ rám vàng nhè nhẹ.

Tạo hóa quả là một họa sĩ bậc thầy, cảnh hoàng hôn phơi bày trước mắt Võ Tài và Trang Nhi tựa như một bức tranh vừa lung linh, vừa huyền ảo, là một sự pha trộn màu sắc tuyệt vời, hài hòa mà nổi bật: có màu cỏ cây xanh biếc, có màu mây trời vàng úa, có màu núi xa xa, có màu trời thăm thẳm. Bức tranh ấy có gió, gió cuốn vào không gian hương thơm ngào ngạt của lúa, gió thổi hồn vào cho bức tranh làm nó nên sống động. Và bức tranh ấy có con người, con người luôn luôn là điểm nhấn của mọi công trình, dù là công trình của tạo hóa. Trang Nhi và Võ Tài sánh vai nhau rảo bước trên con đường đi giữa cánh đồng, hai người say sưa trò chuyện, lúc thì cười nói vui tươi, lúc thì trầm ngâm phiền muộn. Cứ thế phủ Huỳnh gia đã bị bỏ lại mãi phía đằng sau.

Trang Nhi đã ở đây được gần mười ngày, nàng buồn vì không rõ tung tích lão Sáu, nhưng nàng cũng vui vì có Võ Tài bên cạnh. Tâm hồn người phụ nữ là một thứ huyền bí nhất trên cuộc đời này, tâm hồn ấy có thể chứa cùng lúc cả niềm vui và nỗi buồn, cả thù hận và tình yêu. Và chính vì nó chứa nhiều thứ đối lập nhau như vậy, nên cảm xúc của người con gái rất dễ thay đổi, điều đó tùy vào trong lòng nàng đang nghĩ tới cái gì. Như mới chỉ chốc lát đây thôi Trang Nhi còn cười nói vui vẻ, thì bây giờ khuân mặt nàng đã đượm buồn, nàng ngắm nghía bông hoa màu trắng cầm trên tay, ánh mắt tha thẩn.

Võ Tài chưa kịp thích ứng với sự thay đổi cảm xúc đó, bèn hỏi: “Trang sao thế?”

Nàng lắc lắc đầu bảo: “Trang không sao”.

Nó vẫn còn ít va chạm với con gái, cho nên không biết rằng khi con gái nói: “Không sao đâu”, hay “không có chuyện gì đâu” thì tức là trong lòng nàng đang đầy rẫy tâm sự.

Vậy nên nó nghĩ nàng nói không sao thì tức là không sao thật, bèn bảo: “Trang thấy ở đây đẹp không?”

Nàng vừa bước đi chậm rãi vừa đáp: “Quả thật rất đẹp, cảnh làng quê thật yên bình, cảnh thiên nhiên thì thật là tráng lệ. Giá như Trang có thể cả đời sống ở đây, không lo nghĩ gì tới thù hận gì nữa, thì cuộc đời thật đẹp biết bao!”

Võ Tài thành thật nói: “Nếu Trang muốn, Trang có thể sống ở đây bao lâu cũng được, sống cho tới già cũng chẳng sao.”

“Tài nói thật không?” Nàng nói và mỉm cười, gương mặt từ phiền muộn lại bỗng trở nên vui tươi,pha lẫn chút e thẹn.

“Đương nhiên là thật. Chẳng lẽ Tài lại nói xạo Trang sao.”

Hai người bỗng nhiên đi sát vào nhau. Võ Tài nắm tay nàng, dù không phải lần đầu tiên nhưng sự mịn màng từ đôi tay nàng vẫn làm người nó run lên. Nàng dường như biết nó đang run, tủm tỉm nói: “Bộ Tài ít khi nắm tay con gái lắm hả?”

“Ừ! Có bao giờ nắm tay ai đâu, Trang là người đầu tiên đấy.”

“Tài nói Trang là người đầu tiên, vậy tức là sẽ có người thứ hai, thứ ba phải không.”

Nó lúng túng đáp: “Tài không phải có ý đó, với lại trên đời này, còn tìm đâu ra bàn tay giống như của Trang nữa để mà nắm. Nên chắc Tài sẽ không nắm tay ai nữa đâu.”

Trang Nhi bật cười nói: “Tài mồm mép thật cũng không phải vừa. Bảo trước giờ chưa tán tỉnh ai thì sao mà Trang tin được.”

“Trang biết là Trang có thể tin Tài mà.”

Nàng trầm ngâm: “Vậy Tài có tin Trang không!”

“Tất nhiên là tin rồi, tin hết mình luôn.”

“Trang hỏi Tài điều này được không?”

“Trang cứ hỏi, bao nhiêu điều cũng được.”

“Nếu… nếu sau này Trang có làm gì sai, Tài có… có giận Trang không?”

“Giận ư! Tài sẽ giận đấy, nhưng chỉ cần Trang biết nhận lỗi Tài sẽ hết giận ngay.”

“Vậy nếu… nếu điều Trang làm sai là không thể tha thứ được, thì Tài sẽ đối xử với Trang thế nào?”

Võ Tài nắm chặt tay nàng nói: “Trang đừng làm điều gì như vậy cả!”

“Tài nói vậy, tức là sẽ không tha thứ cho Trang phải không!” Nàng nói và giật tay khỏi Võ Tài, vẻ mặt hờn giận.

Võ Tài bối rối, bèn nắm lại tay nàng mà nói: “Tất nhiên Tài không bao giờ giận Trang hết, dù có chuyện gì Tài cũng sẽ như thế.”

Trang Nhi cười khúc khích: “Tài nói rồi đó nhé!”

Chợt nàng thấy phía trước có một ngọn núi khá kì lạ nổi lên giữa đồng. Ngọn núi không to, không nhỏ, sừng sững như một tòa thành. Nàng bèn hỏi: “Ngọn núi đó trông lạ nhỉ!”

Võ Tài nói: “Ngọn núi đó gọi là Khai Tâm Sơn, là đất của nhà Tài. Huỳnh gia võ quán dùng nó làm nơi luyện võ cho đệ tử, trên đó rộng rãi lắm.”

“Khai Tâm Sơn sao, cái tên nghe rất ý nghĩa, vậy mà mấy bữa nay Tài không dắt Trang lên đó xem, thật là keo kiệt!”

Võ Tài cười nói: “Tài xin lỗi, Tài quên mất. Mấy ngày nay trong phủ tình trạng rất khẩn trương, không được tùy tiện ra ngoài. Trang cũng thấy rồi đó, chiều nay phải xin mãi mẹ ta mới cho dẫn Trang ra ngoài đi dạo. Trời cũng sắp tối rồi, lên đó sợ không kịp.”

Nàng gật đầu nói: “Ừ! Có dịp Trang sẽ lên đó. Tiếc là mai Tài xuống thành phố rồi, ở đây chỉ còn lại có mình Trang.” Nét mặt nàng lại chuyển sang vẻ buồn bã.

“Trang đừng buồn, Tài lên mấy ngày sắp xếp việc học, tìm kiếm tung tích lão Sáu. Có gì Tài sẽ về ngay.”

“Tài nhất định phải cẩn thận đấy!”

“Trang đừng lo, từ giờ cho đến trận tỉ thí, bọn chúng sẽ không làm gì Tài đâu.”

Có một tia buồn thoáng qua trong mắt nàng, bỗng nàng đưa bông hoa trắng lên hỏi: “Đây là hoa gì thế, Trang trông thấy rất lạ.”

Võ Tài nói: “À! Hoa này ở đây người ta gọi là Thù Hoa.”

Trang Nhi ngạc nhiên: “Thù Hoa ư! Cái tên nghe có vẻ… không mấy vui tươi nhỉ.”

Võ Tài cười đáp: “Loài hoa này chỉ mọc ở những cánh đồng quanh đây mà thôi. Lai lịch của nó cũng rất đặc biệt. Tương truyền ngày xưa có một đôi trai gái yêu nhau đắm say. Cả hai đều nghèo, chàng thì chăm chỉ học hành mong có ngày tiến thân, nàng thì không quản vất vả lo lắng tiền ăn tiền học cho chàng, chăm sóc cho chàng tứ bề. Rồi cũng đến ngày chàng chia tay nàng lên kinh ứng thí, trước khi đi còn hứa khi đỗ đạt sẽ trở về để nên nghĩa phu thê. Nàng ở quê nhà mòn mỏi đợi chờ.

Nhưng một năm, hai năm, ba năm trôi qua mà cũng không thấy người yêu về. Sau nàng nghe những người đi làm ăn xa về nói chàng thi đỗ làm quan và đã cưới vợ trên kinh thành, sẽ không bao giờ về nữa đâu. Những người này còn khẳng định đã gặp chàng ta nữa. Nàng nghe cái tin sét đánh ấy thì hi vọng lẫn tình yêu sụp đổ. Bà con xung quanh lại bàn ra tán vào không ngớt. Cơn uất hận giày xéo con người nàng, chẳng mấy chốc nàng qua đời. Dân làng hay chuyện của nàng ai nấy đều cảm thương, liền đem chôn nàng dưới chân một ngọn núi. Ít lâu sau quanh mộ nở rộ một loài hoa lạ màu trắng, chính là thứ hoa Trang đang cầm trên tay đó. Từ đó người ta gọi hoa này là Thù Hoa, vì cho rằng nó là do nỗi hờn oan của nàng không tan biến mà kết thành hoa.”

Trang Nhi khẽ nói: “Thật tội cho cô gái đó, đã dâng hiến tất cả cho người tình, thế mà kẻ kia lại vong ân bội nghĩa, phụ bạc tình nhân. Kẻ như thế có sống sớm muộn cũng gặp báo ứng.”

Võ Tài lại nói: “Trang như vậy là trách oan cho anh ta rồi!”

“Sao lại oan?”

“Số là chàng trai đó lên kinh ứng thi nhưng thất bại. Phần vì không còn mặt mũi nào về gặp người yêu, phần vì lộ phí đã tiêu sạch, đường về quê xa cách ngàn trùng, có muốn cũng không về được. Vậy nên anh ta ở lại kinh thành tìm việc làm, dày công ôn luyện đợi đến khoa thi sau. Quả nhiên lần thi này anh đậu đầu bảng, được phong làm quan. Ngay sau ngày thụ chức chàng ta liền vinh quy về làng bái tổ và gặp lại người yêu. Chỉ tiếc khi về tới mới hay người yêu anh vì nghe lời thiên hạ đồn thổi nên giờ chỉ còn là một nấm mộ hoang tàn dưới chân núi hẻo lánh, xung quanh mọc đầy hoa trắng. Anh ta đến viếng mộ người tình mà khóc ròng ba ngày liền, vừa giận mình mà vừa hận đời. Quá đỗi đau lòng, từ đó anh ta không lập gia đình, sống lủi thủi một mình cho tới chết, người ta lại chôn anh cạnh người yêu mình.”

Trang Nhi buông tiếng thở dài nói: “Thật bất hạnh cho họ, giá như cô gái tin tưởng người yêu mình hơn, giá như cô không nghe lời người ngoài, để rồi cả hai phải ôm hận mà chết. Giá như chàng trai báo tin về cho người yêu...”

Võ Tài cười nói:
“Trang có nhiều cái giá như quá!”

Trang Nhi gật đầu nói: “Ừ! Cũng may đó chỉ là truyền thuyết, nếu đôi tình nhân đó là có thật thì tội nghiệp họ quá!”

Võ Tài nói: “Câu chuyện đó không biết có thật hay không, nhưng ngôi mộ của hai người bọn họ ngày nay vẫn còn, đang nằm dưới chân ngọn Khai Tâm Sơn đó đấy.”

Trang Nhi kinh ngạc: “Hả! Tài nói sao, là ngọn Khai Tâm Sơn phía đằng kia ư. Hai người bọn họ được chôn dưới ngọn núi đó sao?”

Võ Tài cười xác nhận: “Chính xác rồi đấy, khi nào Trang rảnh có thể nhờ bé Út dẫn ra xem. Con bé nó cũng hay ra đấy chơi lắm. Chung quanh hai ngôi mộ đó Thù Hoa mọc rất nhiều, trông như một cánh đồng hoa vậy, phủ kín một góc núi.”

Trang Nhi nói: “Truyền thuyết và đời thật có vẻ đan xen vào nhau quá nhỉ.”

Võ Tài nói: “Cụ Tổ bảy đời nhà Tài là Nguyễn Huỳnh Đức khai sinh ra Huỳnh Gia Võ Quán, lấy ngọn Khai Tâm Sơn làm nơi luyện võ. Ngày đó cụ thấy hai ngôi mộ hoang nằm dưới chân núi, xung quanh lại mọc rất nhiều hoa trắng thì rất lấy làm kỳ lạ, bèn hỏi chuyện những người dân quanh đấy mới biết rõ lai lịch của chúng. Cảm khái trước chuyện tình của đôi tình nhân xấu số, cụ mới lệnh cho đệ tử trong phái sửa sang lại hai ngôi mộ cho khang trang, rồi nhang khói hằng năm chu đáo cho tới tận bây giờ. Trước hai ngôi mộ có dựng một bia đá, trên đề hai câu thơ do chính cụ tổ hạ bút viết:

“Thù hoa, thù nhân thế
Sầu tình, sầu thiên thu!”



Trang Nhi ngẫm nghĩ rồi nói: “Hai câu thơ tuy thê lương nhưng lại rất hay. Có lẽ đó cũng là tâm trạng của người đã khuất. Chỉ tiếc là một loài hoa đẹp nhường này mà lại có một nguồn gốc bi thương đến vậy.”

Võ Tài lại nói: “Loài hoa này có một đặc tính rất đặc biệt. Nhựa của nó có màu đỏ như máu vậy. Người ta đồn rằng chàng trai hay cô gái nào đang muốn lừa dối người yêu của mình, thì khi cầm bông hoa này, cánh hoa sẽ rỉ máu đấy.”

Trang Nhi nghe vậy giật mình buông rơi cành hoa đang cầm trên tay xuống đất.

Võ Tài cười nói: “Trang làm gì mà làm rớt cả hoa vậy.”

Nàng đáp: “Tại Tài nói làm Trang giật mình đấy. Loại hoa này không linh nghiệm đến vậy chứ.”
“Thì người ta đồn thổi vậy thôi, chứ thật hư thế nào ai mà biết. Thôi chúng ta về đi, trời ngả tối rồi”.

Tiếng ếch kêu trên đồng rền vang, trời mới khi nãy còn trong xanh mà giờ mây đen từ đâu đã phủ kín, gió nổi mạnh, cảnh vật chuyển mình sang đêm. Phía xa ngọn Khai Tâm Sơn ìm lìm trên nền trời đen sẫm. Trang Nhi và Võ Tài sóng bước nhau quay về, hai người tay trong tay bước đi chậm rãi, lúa hai bên đường rào rạt như nâng bước hai người, mùi hương đồng pha lẫn mùi hương trên người Trang Nhi ôm quyện lấy Võ Tài làm nó có cảm giác bồng bềnh như trong cơn mơ. Con đường thẳng tắp dẫn về phủ Huỳnh gia thanh vắng.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
0,0
Bản sắc anh hùng

Chương 33: Ông cháu lão ăn mày


Buổi tối ở miền quê là một sự đối lập hoàn hảo với buổi tối ở thị thành, đối lập trong từng khía cạnh. Thành phố có nhà cửa tiếp nối nhà cửa, miền quê có đồng ruộng tiếp nối núi đồi; thành phố có ngập ánh điện đường, miền quê ngập ánh trăng sao; thành phố tấp nập, miền quê thanh bình; thành phố ồn ào, miền quê vắng lặng; thành phố ăn chơi, miền quê yên tĩnh; thành phố là một tập hợp những con người xa lạ, miền quê là là một thôn xóm vui sống quây quần; thành phố sa đọa, miền quê chất phác; thành phố giàu sang, miền quê giản dị… cứ thế, nếu nêu ra được một điểm của thành phố chắc chắn sẽ tìm được điểm đối lập nơi làng quê. Thế nhưng lại không thể tách làng quê ra khỏi thành phố được. Nếu ví đất nước như một người mẹ, thì hẳn người mẹ đó đã cưu mang trong mình hai đứa con thân thiết, thành phố là một người anh trai giàu có mà huênh hoang, còn miền quê là một cô em gái dịu dàng mà đằm thắm. Mà đã là anh em thì quan hệ đương nhiên khăng khít, không chỉ là nói suông. Một nửa, mà có khi là hơn một nửa cư dân ở thành phố là người miền quê, chỉ một điều đó thôi cũng đủ để thấy hai nơi này là không thể tách rời được.


Võ Tài ngẩng đầu nhìn trời, trời đen kịt và mưa rả rích, ngoài đồng giàn đồng ca ếch nhái ọp ẹp không ngừng, pha lẫn với tiếng sấm chập chờn và tiếng cây lá xào xạc trong gió. Không gian tĩnh lặng tiếng con người nhưng vang vọng tiếng của thiên nhiên, có lẽ đó mới là sự tĩnh lặng thật sự. Ngay phía sau đại sảnh của Huỳnh gia có một tòa tháp nhỏ, trên tháp có một cái gác, gác chỉ có mái che, bốn bên không xây tường, tựa như một cái sân thượng. Nơi đó gọi là Gác Trăng, là nơi tĩnh tọa về đêm cho các đệ tử Huỳnh gia. Võ Tài đang trên đó, có chưởng môn Huỳnh Tiết đứng bên.


Huỳnh chưởng môn nói, tiếng ông nhỏ mà vang, truyền thẳng vào tai người nghe: “Khi quyết định truyền Âm Dương Chưởng Pháp cho con, ta thật cũng không dám nghĩ con có thể luyện nhanh đến vậy, ta rất mừng.”
Ông trước nay ít nói, nhưng không bao giờ nói lời thừa thãi. Ông bảo “ta rất mừng” có nghĩa là trong lòng ông thật sự vô cùng hài lòng. Võ Tài đối với cha một lòng kính phục, cúi đầu nói: “Dạ! Con chỉ làm hết sức mình, không dám xao lãng.”

Huỳnh chưởng môn nói: “Chương chữ Khôn con đã luyện xong. Vậy chương chữ Đoài con luyện tới đâu rồi.”

Võ Tài đáp: “Thưa cha, con vẫn đang cố giữ tâm thanh tịnh.”

Huỳnh Chưởng môn ngắm mưa nói: “Con nêu lại pháp môn Thiền cho ta nghe."

Võ Tài kinh cẩn đáp: “Dạ thưa: nhất định trí, nhì định tâm, tam nhập thiền, tứ lạc vô biên.”

“Nghĩa là sao?”

“Dạ thưa: trước hết phải làm chủ suy nghĩ của mình, hướng suy nghĩ từ những điều tốt đẹp đến những điều xấu xa, từ những gì to lớn đến những điều nhỏ nhặt, cuối cùng để cho suy nghĩ trống rỗng. Kế đến dẹp mọi phiền não, lo lắng, vui buồn, hỉ, nộ, ái, ố để tâm không còn động. Sau khi suy nghĩ và tâm thần đã thinh lặng là đã bắt đầu bước vào cảnh giới của Thiền, đó là lúc tinh thần và thể xác hòa làm một. Thân xác như thực mà hư, tinh thần như hư mà thực. Bước cuối cùng là cảnh giới cao nhất, trời và người như hòa làm một, trong trời có ta và trong ta có trời, vạn vật hóa ra hư không, hư không ở trong ta và ta ở trong hư không, đó chính là vô biên”.

Huỳnh chưởng môn gật đầu nói: “Tốt lắm. Cốt lõi trong Thiền Pháp của Huỳnh Gia ta nhấn mạnh tới tâm. Tâm vừa là trung tâm vừa là trung gian giữa thân xác và linh hồn, giữa cái thực và cái hư trong thân thể ta. Làm chủ được tâm cũng chính là đã làm chủ toàn vẹn con người mình. Nhưng tâm là một thực thể khách quan trong con người, chỉ có thể làm chủ, tuyệt không thể điều khiển. Nếu ai ảo vọng muốn điều khiển cả tâm của mình, thì sẽ sa vào tà đạo.”

Võ Tài nói: “Thưa cha, giữa làm chủ và điều khiển có gì khác nhau. Chúng ta đã làm chủ nó chẳng phải cũng là đang điều khiển nó sao.”

Ông nói: “Đó là một suy nghĩ sai lầm mà nhiều người học võ vướng phải, và do vướng phải điều đó nên nhiều người tu luyện nội công cả đời cũng không đạt được cảnh giới tối cao. Ta lấy cho con một ví dụ nhỏ thế này: nếu con cảm thấy không có tình cảm với ai đó, con có thể bắt tâm của con yêu họ không?”

“Dạ thưa không! Không thể tự bắt mình yêu ai đó được.”

“Đúng vậy! Đó chính là không thể điều khiển được tâm. Tương tự như vậy, nếu con căm thù ai đó, con cũng không thể bắt tâm của mình thôi căm thù người ta. Nhưng con có thể kiểm soát sự thù hận đó, không để nó xâm chiếm con người con. Khi đó chính là con đang làm chủ tâm của mình.”

Võ Tài liền nói: “Thì ra là vậy!”

Ông lại nói: “Năm xưa có một thiền sư tới đàm đạo với cố chưởng môn Huỳnh Nhậm. Vị thiền sư đó nói: ‘thiền trong võ học khác hẳn với thiền trong tu hành. Người học võ ngồi thiền để luyện nội công, tăng sinh khí. Còn người tu hành ngồi thiền để hóa giải đau khổ, thấu hiểu nhân sinh, đưa hồn tới cõi cực lạc. Chính vì mục đích khác nhau nên tự nhiên phương pháp thiền cũng khác nhau. Người học võ dùng tâm pháp võ công để đưa tâm vào cảnh giới thiền, còn người tu hành bước vào thiền bằng cách trầm mặc, để cho mọi sự từ từ hóa ra hư không. Theo tôi đó mới chính là thiền thật sự, còn như các ông chỉ là võ mà thôi.’
Cố chưởng môn đáp: ‘Tại sao lại phải phân biệt giữa người tu hành và người học võ. Chẳng phải cả hai cũng chỉ có một tâm là tâm của con người đó sao. Tại sao lại phải phân biệt giữa thiền võ học và thiền tu hành, như cách nói của ngài, chẳng phải cũng đều là thiền sao, cũng đều giúp con người làm chủ nhân thân của mình. Võ công trong Huỳnh Gia chúng tôi chữ Thiền đứng trước chữ Võ, chữ Đạo lại đứng trước chữ Thiền. Tức là chúng tôi không dùng Thiền để phục vụ cho việc luyện võ công, lại càng không dùng Đạo làm mục đích của Thiền. Thiền đơn giản là để rèn luyện cốt cách con người, biết cách ứng xử trước hỉ nộ ái ố, không để thân sinh ra tâm ma. Nếu như khi nhập thiền mà còn mang suy nghĩ để gia tăng công lực hay hóa giải đau khổ, thì còn ích chi. Những điều đó là kết quả tất yếu tự nhiên xảy đến, là những thành quả trong rất nhiều thành quả của thiền chứ không phải là hai loại thiền khác nhau. Nếu chỉ giới hạn ý nghĩa của thiền định trong việc luyện võ hay tu hành thì có phải quá ích kỉ và thiển cận chăng’.”

Võ Tài nghe tới đó mắt bừng sáng, chân thành nói: “Suy nghĩ của ông nội quá sâu sắc!”

Huỳnh chưởng môn tiếp: “Ta dùng lời của ông nội để nói lại con nghe, để con biết rằng trong lúc thiền định phải để tâm hóa ra không. Thiền là để giao hòa các đối lập trong chính bản thân mình và giao hòa với trời đất, tuyệt đối không được mang tư tưởng rằng thiền là để luyện võ, đó là kết quả đến sau. Nếu dùng kết quả đó như mục tiêu thì con chắc chắn sẽ không bao giờ vượt qua được chương chữ Đoài này đâu.”
Võ Tài vội vàng cúi rạp người xuống nói: “Cám ơn cha đã chỉ điểm, nếu không chắc con không bao giờ hiểu được.”
Huỳnh chưởng môn nói: “Ta nói tới đây thôi. Con ghi nhớ lời ta mà luyện tập, không được bê trễ.”

“Dạ con xin nhớ!”

Nói xong ông trở bước đi xuống lầu, để lại một mình Võ Tài trên Gác. Nó nhìn theo bóng ông đi khuất, buông ra một tiếng thở dài, không biết trong lòng nghĩ ngợi điều gì. Trên gác ánh đèn dầu mờ ảo thắp sáng bốn góc và ở giữa mái. Nó dựa vào lan can nhìn ra bầu trời đêm đang rả rích mưa phía trước, tâm tư trở nên trầm lắng. Một lúc sau mới nghe nó khẽ thốt ra một câu rất nhỏ: “Không biết giờ này cô ấy đang làm gì nhỉ?”
Đó là đã vào độ nửa đêm. Nó quay trở lại giữa căn Gác, ngồi xếp bằng trên một tấm đá lớn, nhắm mắt tĩnh tọa, tiếp tục luyện chương chữ Đoài trong bộ Âm Dương Chưởng Pháp.

...

Leng keng…leng keng! Tiếng chuông lảnh lót vang vang trên một con phố Sài Gòn, nghe vừa quen mà vừa lạ. Quen vì âm thanh này ai cũng biết là của mấy bác bán cà rem dạo trên đường, lạ là vì đã từ lâu không ai dùng cái tiếng này làm nhạc hiệu nữa, mà đa phần đã thay bằng nhạc điện tử cả rồi. Có lẽ cái xe cà rem này là thứ duy nhất còn sót lại. Bác bán cà rem, như bọn nhóc vẫn gọi, thong thả đạp xe, tay nhịp nhàng lắc cái chuông nhỏ buộc nơi tay lái. Trời trưa nắng như lửa đốt dù là đương vào tháng mười một, cái nắng hun đúc hơi ẩm của mấy ngày mưa dầm vừa qua lại càng làm không khí thêm oi bức. Đường phố tấp nập người qua kẻ lại, ai nấy mặt mũi bịt khẩu trang, mặc áo khoác kín bưng, một cách đối phó với nắng và bụi rất phổ biến ở thành phố này.


Trên vỉa hè, dưới hàng cây phượng có hai người đang lững thững bước đi, một già một trẻ. Già thì đeo kính đen, dáng điệu lòm khòm, một tay cầm một cái gậy nhỏ đưa ra phía trước cho một thằng bé dẫn đi, một tay cầm cái mũ rộng chìa ra xin tiền. Thằng bé thì độ chừng tám chín tuổi gì đấy, da đen nhẻm, tướng tá gầy còm, chỉ có đôi mắt là sáng ngời, một tay cầm gậy dắt ông già, tay còn lại cầm xấp vé số, thấy ai cũng mời. Đúng là ông cháu lão ăn mày mà Võ Tài đã cứu hồi hôm nọ, thằng bé tên là Sún.

Ông già càu nhàu: “Mày chịu khó mở cái mồm ra van xin người ta, cứ chìa xấp vé vào mặt họ, chó nó mua cho mày à!”

Thằng Sún cự lại: “Đi suốt ngày cháu mệt lắm rồi! Từ sáng giờ ông cho ăn mỗi ổ bánh, sức đâu nữa mà nói.”

Ông già giật cái gậy chọc vào mông thằng bé mà nạt: “Còn cãi cọ nữa, mày được ổ bánh còn tao có cái gì không. Không bán hết đống vé đấy thì tối nay cho nhịn luôn.”


Lúc đó chiếc xe cà rem đã tới gần, mang theo âm thanh leng keng rất cuốn hút của chiếc chuông. Thằng bé không ngần ngại la lên: “Ông! Cho cháu ăn kem, rồi cháu bán hết cho.”
Dưới lớp kính đen, mắt ông già trợn lên, tựa như vừa nghe thấy một yêu cầu hết sức kì lạ. Lão nói: “Mày đòi ăn kem cơ à. Nằm mơ à!”
Nhưng thằng bé hình như đã nhất quyết, buông luôn cây gậy ra mà ngồi phệt xuống đất nói: “Ông không cho ăn, cháu không đi nữa, mệt lắm rồi!”
Ông già tay cầm cây gậy chỉ chỉ vào nó mắng: “Ơ cái thằng này! Hôm nay giở cái chứng khỉ gì ra vậy hả!”
Tiếng leng keng đến gần hơn, nét mặt của bác bán kem lơ đễnh, hình như không chú ý gì đến ông cháu ăn mày bán vé số. Thằng bé vẫn ngồi lì bên vỉa hè, không nói tiếng nào, còn lão ăn mày thì chỉ biết mắng mỏ, không biết làm sao.
Chiếc xe kem băng qua hai ông cháu lão, thằng bé liếc mắt nhìn theo tiếc nuối. Bỗng ông già gọi giật lại: “Cà rem, lại đây!”
Bác bán kem theo phản xạ mỗi khi nghe có tiếng gọi liền thắng xe nhìn lại. Ánh mắt hơi nghi ngờ. Trên thùng kem viết lớn mấy dòng chữ quảng cáo: “Kem cốc thơm ngon, giá rẻ bất ngờ”

Lão già nói: “Nhìn cái gì, có bán không?”“Mua bao nhiêu?”

“Bán cho một cây!”

“Cây lớn hay bé?”

Lão già đang định đáp thì thằng bé đã chen vào: “Cây thật lớn đi chú!”


Gã bán kem thấy khách đã mua thì đương nhiên ánh mắt từ kì thị cũng chuyển ngay sang thân thiện, vui vẻ múc đầy một ly kem đưa cho thằng bé. Lão già cũng đánh bấm bụng trả tiền.
Thằng bé có kem rồi thì ngoan ngoãn trở lại, tay lại cầm cây gật dắt lão già đi, vừa đi vừa mút kem.

Lão dọa: “Cho ăn mà không làm được việc thì coi chừng với ta.”

Vừa nói xong thì có một thiếu phụ mập mạp, chạy xe dream, áo trong áo ngoài bịt khẩu trang kín mít đỗ xe lại bỏ vội vào cái mũ của lão một tờ giấy bạc. Lão ta đang lúc răn đe cháu mình, nhưng thấy có người cho tiền thì nét mặt lập tức chuyển sang vẻ khổ sở lẫn biết ơn, cúi rạp đầu đáp tạ một cái nói: “Đội ơn bà!”. Xong rồi nhanh chóng cất ngay tờ bạc vào người, cái mũ lại trống rỗng.

Thằng Sún nói: “Ông thấy chưa, mua kem có thiệt thòi gì cho ông đâu.”


Ông già có tiền rồi thì cũng không cáu kỉnh nữa bèn nói: “Đi thẳng tới phía trước có một cái quán cà phê rất lớn, hôm nọ tao đi ngang qua đây mới phát hiện. Ghé vào đấy xin tiền với bán vé. Nhớ làm việc nhanh gọn trước khi bị lũ nhân viên đuổi ra.”

Đi thêm một đoạn thì quả thật có một quán cà phê khuân viên rộng lớn nằm ngay mặt đường, cây cối xanh um, không gian thoáng đãng, đúng là một quán hạng sang. Phía trước quán gắn một cái biển hiệu lớn được tô điểm rất công phu viết tên quán: Coffee Rừng Xanh, phía dưới lại ghi chú hàng chữ tiếng anh nho nhỏ: Jungle Coffee. Hai bên cổng xe to xe nhỏ dựng thành mấy dãy dài, bên trong người qua kẻ lại tấp nập, bàn nào cũng có người ngồi, tiếng nói chuyện xôn xao hòa lẫn tiếng nhạc vẳng ra ngoài đường.


Lão già khẽ kéo cái kính đen xuống rảo mắt nhìn vào bên trong thăm dò, sau cùng kéo cái kính lên che mắt phát lệnh: “Vào đi!”

Thằng Sún lựa lúc mấy tay bảo vệ đang bận rộn dắt xe thì dẫn lão già chụt tọt luôn vào quán. Bên trong quán cây to cây nhỏ rợp bóng, không gian mát rượi đúng như giữa rừng. Đây đó lại lắp đặt mấy cái hồ nước lớn với non bộ bên trong phun nước xối xả, bàn ghế được bố trí khéo léo xen lẫn giữa những gốc cây tán lá. Những hồ nước, những mái đình tạo thành không gian vừa riêng tư mà vừa thoáng đãng, toàn bộ khuân viên quán trông tựa như được đặt giữa rừng, đối lập với cái sự tấp nập của đường xá bên ngoài.

Thằng Sún ngơ ngác nhìn chung quanh như lạc vào cõi mộng, nó chưa vào quán này bao giờ, cũng chưa từng thấy nơi nào sang trọng như vầy. Lão già thì kinh nghiệm đã nhiều, không thèm để ý đến cảnh vật xung quanh, giật giật cái tay nhắc thằng bé: “Tấp vào cái bàn bên trái kia mà xin.”


Thằng Sún liếc về phía đó, thấy có sáu người ngồi quây quanh một bàn, toàn thanh niên ăn mặc bảnh bao sạch sẽ, chia thành ba cặp trai gái mà ngồi. Nó theo chỉ thị liền tiến tới.
Sáu thanh niên nam nữ nhìn thấy có hai ông cháu bẩn thỉu xuất hiện thì ai nấy đều hơi nhăn mặt. Ông già không biết do vô tình hay hữu ý mà cái mũ đã chìa ra ngay trước mặt một gã mà khổ sở nói: “Xin cậu cho mấy đồng, ông cháu tôi từ qua đến giờ chưa có gì ăn.”

Gã thanh niên giả vờ không nghe thấy, tựa như lão chẳng hề có mặt, vẫn làm bộ vui vẻ trò chuyện với cô gái bên cạnh. Lão già đương nhiên không chịu bỏ cuộc, liền đưa chiếc mũ vào giữa hai người mà nói: “Xin cô cậu làm phước bố thí cho một ít.”

Gã ta không thể giả lơ nữa bèn miễn cưỡng bảo: “Không có đâu bố ơi, bố đi chỗ khác xin đi cho con nhờ.”

Nhưng lão già vẫn kiên quyết không thu mũ về, miệng lải nhải: “Xin cô cậu!”

Phía bên kia thằng Sún cũng đã chìa xấp vé số ra mời một gã khác: “Anh mua cho em tờ vé số đi anh.”

Hắn ta nhẹ nhàng từ chối: “Anh không mua đâu em ơi.”

Thằng Sún lại chìa xấp vé tới gần hơn mời: “Anh mua đi anh, em còn có mấy tấm thôi.”

Hắn ta gạt tay thằng bé ra, không thèm nói gì.

Thằng Sún không bỏ cuộc, lại gí xấp vé tới trước mặt cô gái mời: “Chị mua đi chị!”

Cô gái ngại ngùng lắc đầu, tay khẽ xua xua như phẩy ruồi. Nhưng thằng Sún lại mời mạnh: “Mua cho em đi chị.”

Cô ta hơi khẽ ngã người về sau vì tay của thằng Sún đưa tới quá gần, có lẽ sợ bàn tay nó sẽ làm bẩn bộ cánh màu trắng cô ta đang mặc, cô ta khó chịu nói: “Không mua đâu, đi đi!”

Nhưng thằng Sún đã được lão già đào tạo rất kĩ lưỡng, đâu dễ bị đuổi, vẫn kiên quyết giữ xấp vé trước mặt cô ta với chàng trai. Hai người này cũng không còn cách nào khác đành cứ làm lơ mà trò chuyện với nhau như không có mặt nó vậy. Sau một lúc thì nó cũng bỏ cuộc, lại đi vòng sang đôi trai gái còn lại, đôi này nãy giờ cũng đã chứng kiến cảnh đeo bám quyết liệt của nó, nên nó chưa kịp mời đã xua tay ngay nói: “Không mua đâu em”. Nhưng thằng Sún nào phải đứa dễ bỏ cuộc như vậy, vẫn chìa xấp vé số ra trước mặt hai người mà lập lại lời mời quen thuộc: “Anh chị mua đi.”


Phía bên kia, lão già vẫn kiên trì đeo bám đôi nam nữ còn lại. Cuối cùng gã thanh niên cũng không chịu đựng được đành phải rút một tờ bạc mà bỏ vào mũ của lão. Lão đội ơn xong lại chìa mũ về phía đôi thanh niên bên này ngỏ lời xin xỏ.

Hai người phía thằng Sún thì sau một lúc dường như cũng không chịu nổi, đành phải móc tiền mua cho nó hai tờ vé số, xong rồi mới nói: “Tiền cho rồi, vé mua rồi, đi giùm cho cái.”

Lão già thấy đã kiếm chác được, không tiện nài nỉ thêm bèn chọc chọc gậy ra hiệu cho thằng Sún rút lui.

Thằng bé nói: “Bàn nào tiếp đây ông?”

Lão chỉ tay chếch về mé trái nói: “Sắp bị phát hiện rồi, qua cái bàn phía bên kia đi.”

Bên đó có một bàn bốn người ngồi dưới gốc một cây Si lớn. Hai ông cháu lại tiến về phía ấy. Bốn người đó ba nam một nữ, nữ vừa trẻ vừa thanh lịch, ba nam đều đã trung niên, ăn mặc lịch sự ra dáng người thành đạt.


Vẫn chiêu cũ, vừa tới nơi thì lão già đã ngả mũ xin tiền, còn thằng cháu thì chìa vé mời mua. Hai ông cháu chia nhau hành động. Bộ tứ ngồi ở bàn này độ dửng dưng còn cao hơn hẳn nhóm thanh niên kia, họ cứ trò chuyện như thể không có mặt hai ông cháu vậy. Nhưng hai ông cháu đương nhiên chiến thuật đã vạch sẵn từ trước, khách hàng càng làm lơ thì phải càng làm mạnh, vậy nên mũ lại đưa tới sát hơn, vé số thì lại nài nỉ nhiều hơn. Một tên trong bọn có râu quai nón, tóc vuốt keo sáng bóng dường như cảm thấy quá khó chịu bèn hất tay lão già ra nạt: “Xê ra coi.”

Lão già lùi lại hai bước. Lão kinh nghiệm xin ăn dày dặn, thấy vẻ kiên quyết của những người này thì đã biết là bọn cực keo, có lì đòn cũng chẳng được miếng nào.
Đang định ra hiệu cho thằng cháu đi chỗ khác thì lão chợt nghe từ một bàn bên cạnh có tiếng xì xào nói: “Lệnh của môn chủ truyền xuống, mấy bữa nữa sẽ hợp cùng bốn Hội khác thuộc Địa Long Đường đại náo bữa tiệc sinh nhật của hắn, hình như là tổ chức hẳn ở sân vận động đấy. Lần này ra quân hình như là do đích thân một trong Tứ Bất Tử thống lĩnh đấy.”


Lão già vừa nghe mấy lời đó thì tai liền vểnh lên. Lão trước kia vốn cũng là người trong giang hồ, nên đối với những tin tức kiểu này rất hứng thú, bèn quyết ý nán lại nghe ngóng xem chuyện gì, vậy nên lại chai mặt chìa mũ tới xin ăn, trong khi tai thì để ý nghe hai người bên bàn kia nói chuyện. Lão liếc mắt về phía ấy thì thấy một tên nhỏ con, cắt đầu ba phân nhuộm vàng rực, tai xỏ khuyên, tay xăm trổ đen xì, mặc một cái áo đen bó sát người, hằn lên mớ cơ bắp khá khiêm tốn. Tên còn lại tướng tá mập mạp, mắt nhỏ mũi to, miệng rộng cằm nhô, trông có phần dị hợm, nhất là bộ cánh sặc sỡ sắc màu của gã càng làm gã trông giống một tên hề. Lão ăn mày nhãn quang cũng không tệ, vừa nhìn là biết người thuộc Lô Hội, là đám đàn em của Độc Nhãn Môn Chủ, thuộc Thanh Long Bang. Chúng nó chắc đi thu tiền bảo kê về nên ghé vào đây xả hơi.

Tên mập nói: “Tứ Bất Tử ư! Mấy người đó nghe nói võ công xếp hàng đệ nhất trong môn phái, rất ít khi xuất hiện, lần này lại đích thân xuất mã, vậy chắc không phải chuyện đùa. Mày nói là bữa tiệc sinh nhật của tên bang chủ Liên Hoa Bang mà năm nào cũng đãi trong sân vận động ấy hả.”

Gã nhỏ con đáp: “Chứ còn tiệc nào nữa. Cái tên bang chủ đấy chơi ngông, năm nào cũng mở đại tiệc đãi thiên hạ. Bọn ăn mày, hàng rong, vé số trong thành phố này có đứa nào mà không biết, có đứa nào là không tới ăn. Cái tên bang chủ đấy nói tiệc tùng như vậy là để khoản đãi tất cả những ai trong năm đã “hợp tác làm ăn” với Liên Hoa Bang, hay nói toẹt ra là đã đóng tiền bảo kê cho chúng đấy. Bà mẹ nó! như vậy là bảo bang của bọn mình chả ra làm sao rồi.”

Tên mập mạp nói: “Môn chủ nhà mình cũng liều thật, lại dám chơi cả với bọn Liên Hoa Bang.”

Gã nhỏ con nói: “Môn chủ cái gì, đấy là chỉ thị từ tận cấp chưởng môn đấy, cứt có phải chuyện đùa đâu. Lực lượng Lô Hội nhà mình có thấm vào đâu so với bốn Hội lớn bên Địa Long Đường. với lại tao nghe anh em trong hội bàn tán mấy hôm nay, độ hơn tháng nữa sẽ xảy ra một đại sự cực lớn, lớn hơn cả chuyện phá rối này, đến lúc đó lực lượng huy động sẽ còn đông đảo hơn.”

Tên mập lập tức hỏi: “Đại sự gì.”

Gã nhỏ con ra vẻ hiểu chuyện nói: “Thanh Long Bang chúng ta sẽ có một trận quyết chiến với Liên Hoa Bang bọn nó, nghe đâu là ở Long An đấy.”

“Thế tự nhiên đánh nhau à?”

“Vớ vẩn! mày thấy chúng ta rảnh qua không có gì làm mà đi đánh nhau à. Đó gọi là tranh quyền đoạt lợi. Sự tình bên trong thế nào là tuyệt mật của bổn môn, bọn tép riu chúng mình làm sao biết được, đến cả Môn Chủ Độc Nhãn cũng chẳng rõ nữa là. Nhưng riêng việc phá rối bữa tiệc sinh nhật sắp tới của tên Lưu Bạch Phong cũng là nằm trong kế hoạch quyết chiến sắp tới cả đấy. Tốt nhất là chuẩn bị tinh thần ngay từ bây giờ, mài đao vuốt kiếm, xông trận lập công kiếm ăn”

Thằng mập nói: “Mày nói phải đấy, hiếm khi mới xảy ra chuyện lớn cho anh em ta tỏ bản lĩnh, suất ngày cứ lê la ngoài đường bắt nạt bọn cave với mấy cái quán cà phê cà pháo này thật chán chẳng buồn chết. Nhưng chẳng lẽ tới phá rối rồi thôi à, phải làm cái gì đấy chứ.”

Kẻ kia đáp: “Đương nhiên không phải chỉ tới đập phá suông, kế hoạch cụ thể thế nào thì tối nay đại ca đi họp bên chỗ tổng đàng rồi mới về thông tin lại cho rõ. Nhưng tao nghe nói con gái rượu của tên bang chủ cũng xuất hiện trong bữa tiệc, hình như phải bắt cô ta làm con tin thì phải. Cái con đấy, nghe nói mướt lắm, nhìn mà đã con mẹ nó mắt, tiếc là chừng nào mới tới bọn mình hưởng.”

Gã mập nói: “Đến một con nghệ ra mâm ra xôi còn chả kiếm được, đúng nghĩ vớ vẩn.”

Tên gầy cự: “Có cái loại mày gái nó mới không thèm ngó, chứ còn tao đâu có thiếu.”

Tên mập lại tiếp: “Cái loại lắm mối tối nằm không như mày mà cũng đòi nhận đào hoa, khùng bỏ mẹ nó rồi. Chừng nào có con điên nào nó tự nhận là bạn gái mày thì tao chịu là mày có bồ.”

Tên gầy còn định cãi tiếp thì tên mập lại nói: “Thôi thôi dẹp gái gú sang một bên đi. Cơm nước cái đã.”

Lúc đó thì bồi bàn đã bê đến cho hai gã một mâm cơm văn phòng khá thịnh soạn. Tên mập liếc qua mâm cơm một cái rồi nhăn mặt nói: “Ớt đâu! Chúng mày bán cơm mà không có ớt à.”

Gã phục vụ rối rít vâng dạ chạy đi lấy. Lúc đó thì tên gầy đã tộng vào mồm một miếng cơm to tướng, vừa nhai vừa nói: “Bọn người bên Bạch Mai Đường lâu nay cứ ỷ thế bắt nạt quân ta, hôm nào kéo anh em tới đập cho bọn nó một trận mới được. Mà kể cũng lạ, cả cái Hắc Hội béo bở như vậy bị bọn chúng ăn cướp mà Đường chủ bên mình cũng không bảo sao, càng nghĩ càng thấy tức. Giờ ở cả quận Gò Vấp này còn mỗi Lô Hội tụi mình, chắc sớm muộn cũng bị hỏi thăm thôi.”

Tên mập lúc đó đã nhận được ớt, cũng cắm cổ ăn, vừa nhai vừa nói: “Liếm mau còn về gặp đại ca, đến trễ là bị trừ lương đây.”

Hai tên lúc đó cũng không nói năng gì nữa.

Cũng vừa lúc hai ông cháu lão ăn mày bị bọn nhân viên mời ra ngoài. Tất nhiên dùng chữ mời là cho sang, chứ nói cho đùng thì là bị đuổi cổ. Lão ta vừa đi vừa ngẫm nghĩ: “Khi nãy nghe hai tên ôn vật này nói Thanh Long Bang sẽ đại náo tiệc sinh nhật thường niên của Lưu Bạch Phong, chuyện tày trời như vậy đúng thật là hiếm khi xảy ra. Mình nắm cái thông tin này, liệu có ơn ích gì không nhẩy.”

Đang ngẫm nghĩ thì một âm thanh làm lão ta giật bắn cả người, thì ra là thằng cháu đi bên cạnh vừa la lên. Nét mặt nó hớn hở, hai tay vẫy vẫy. Lão lấy làm kì lạ nhìn theo hướng ánh mắt của nó thì thấy một đám nhóc sáu bảy đứa gì đấy đang đi lông nhông trên đường, hình như cũng đang vẫy lại.

Lão hỏi: “Chúng mày quen nhau à?”

Thằng Sún đáp: “Dạ, bạn học của con đấy, con qua chơi với bọn nó tí.”

Lão già còn chưa kịp từ chối thì nó đã chạy tón đi. Lão chỉ còn biết tặc lưỡi: “Cái thằng nhóc này, làm không lo làm”. Nói rồi thở dài đánh thượt một cái rồi cũng bỏ đi.

Đám nhóc kia chính là những thằng nhóc em của Chuột Đồng, được thằng Long với Võ Tài dạy học cho. Hết thảy có bảy đứa, đứa đánh giày, đứa bán vé số, đứa ăn xin, đứa bán hàng rong. Đứa nào đứa nấy nấm lem bẩn thỉu, bình thường thì vẫn tản ra kiếm ăn, không hiểu sao lại đang tụ cả lại như thế.

Thằng Sún vừa chạy tới đã hỏi: “Chúng mày không đi làm à?”

Thằng Đen, cũng là đứa lớn nhất trong bọn đáp: “Bọn tao đang định về sớm một tí, chiều nay anh Tài đến đấy, phải học cho tốt không thì bị mắng chết. mày chép bài gì chưa?”

Thằng Sún la lên: “Anh Tài xuống thành phố rồi sao! Chết, sáng đến giờ cứ lo đi bán tao chưa làm gì cả.”

Thằng Trọc liền nói: “Bọn mình tìm chỗ nào mát mát rồi nói chuyện, đứng giữa đường vầy nắng quá.”

Thằng Cuội góp ý ngay: “Đến chỗ cái nhà hoang đi, tiện thể mua mấy chai nước luôn.”

Thằng Hói bé nhất bọn nói ngay: “Em thích uống sờ ting!”

Nói rồi cả bọn ghé vào một quán cóc vỉa hè tíu tít mua nước mua lôi, rồi rồng rắn kéo nhau đi.
Bọn nó đi qua mấy con phố, rồi lại chui qua mấy con hẻm, cuối cùng đến một con đường vắng. Trên đường có một căn nhà đổ nát bị bỏ hoang nằm giữa một vườn cây um tùm, cả bọn trèo tưởng nhảy vào đấy.
 
Chỉnh sửa lần cuối:

luukim

Gà tích cực
Nhóm Tác giả
Nhóm Chuyển ngữ
Tham gia
2/5/15
Bài viết
167
Gạo
0,0
Bản sắc anh hùng

Chương 34: Ẩu đả trong nhà hoang



Bên trong sân bọn nhóc lẻn vào không khí mát mẻ, tương đối sạch sẽ và thoáng đãng, có lẽ thường hay có người lui tới. Bọn nhóc chia nhau ngồi mỗi đứa một nơi, bật nắp nước ra thi nhau uống.

Thằng Sún khi nãy trong quán café đã mặt dày uống cạn một ly nước của một ông khách nên giờ cũng không khát lắm. Nó cao giọng hỏi: “Mấy đứa bọn mày bỏ về sớm, không sợ bọn chăn nó đánh cho à?”

Thằng Đen trề môi nói: “Có cái gì mà sợ, anh Chuột xin giúp rồi. Bọn tao làm tới chiều về, rồi tối lại đi làm tiếp. Mẹ nó, hôm nay xui như cục cứt chó!”

Thằng Sún hỏi: “Sao mà xui, bán không được à?”

“Bán không được cũng còn đỡ," Thằng Đen giải thích, "đằng này tao bị hai thằng mất dạy giật vé số. May mà tao nhanh tay giật lại kịp, không thì tối nay nhừ đòn với lão Rô rồi.”

“Lão Rô là lão chăn bọn mày à?” Thằng Sún hỏi

Thằng Đen gật đầu nói: “Ừ, tao mà làm mất vé thì lão chẳng cho qua, đánh một trận cho chừa cái tội ngu rồi trừ lương dần dần.”

Thằng Tí liền chen vào: “Tao cũng có ngon gì đâu, đánh giày cho cái thằng ông nội kia. Mẹ nó chứ cái đôi giày cũ sắp vứt đi rồi mà còn bảo tao đánh, tao vừa đánh được mấy cái thì nó bị rách, cái là ông chửi tao như chửi chó vậy, còn đòi bắt đền tao nữa.”

Cả bọn nhao nhao: “Vậy mày có đền không?”

“Điên đâu mà đền!" Thằng Tí khẳng khái, "thà bị chửi chứ không có đền, tiền đâu mà đền. Với lại tự nhiên bắt tao đền đôi giày mới, có mà thần kinh à. Cũng may có cái cô cô bán nước cô nói cho, cái ông kia mới chịu bỏ đi đấy.”

Thằng Đen đệm vào: “Toàn bọn mất dạy!” Nói đoạn lại quay sang thằng bé nhất: “Còn mày thì sao Hói, có xin được gì không?”

Thằng Hói ngước đôi mắt ngây thơ lên nhìn mấy đứa anh, ánh mắt thân thiết nói: “Em xin toàn bị đuổi không à. Có cái ông kia em xin ông không cho, cái em cứ bám sau đít ông, tí nữa thì bị ăn tát. Ông bảo không biến là ông lấy luôn cái mũ. Em nghe sợ quá phải bỏ đi. Còn có cái chị xinh xinh kia nữa, em cứ tưởng chị ấy xinh thì chắc sẽ cho tiền, ai ngờ mới mở mồm chị ấy đã la lên cái gì đấy em không rõ, rồi cứ xua xua em ra. Cũng may có mấy cô kia cũng cho, nên hôm nay mới có mấy đồng.”

Thằng Đen lại hỏi: “Thế hôm qua lão Rô chỉ cho mày phải quỳ xuống để xin, mày có quỳ không?”

Thằng Hói lắc lắc đầu phủ định: “Anh Tài nói không được quỳ trước mặt ai hết, nên em không quỳ.”

Thằng Đen nói: “Ừ mày nói cũng phải, anh Tài bảo vậy thì phải nghe lời.” Nói đoạn nó lại quay sang hỏi chuyện mấy đứa khác. Cả đám từng đứa nhao nhao thuật chuyện, không khí nhất thời rộn rã.

Sau cùng thằng Sún nói: “Này bọn mày, hôm qua anh Long dạy cái chiêu gì ấy nhỉ, tao quên mất rồi”.

Thằng Cuội, vốn là đứa lanh lợi nhất bọn liền nói: “Cái đấy gọi là Phong Thủ, anh Long bảo từ từ sẽ dạy hết cho bọn mình Thập Nhị Quyền Thủ. Học xong cái đấy là khỏi sợ mấy thằng du côn ưa bắt nạt con nít ngoài đường rồi.”

Nói đoạn nó liền nhảy xuống sân, hai tay hồi quyền, xuống mã bộ, xiết cơ nói: “Để tao làm lại cho tụi mày coi nè.”

Nói xong tay đang từ thế thủ phóng ra một quyền, chân chuyển cung bộ, cứ thế nhịp nhàng diễn lại trọn bộ bài Phong Thủ, một trong mười hai thế quyền căn bản của võ công Huỳnh Gia.
Bọn con nít vỗ tay rầm rập khen hay, cả đám chỉ có mỗi thằng Cuội sáng dạ hơn cả, khó mấy nó chỉ học một lần là nhớ. Những đứa còn lại thuộc được chiêu thứ nhất thì quên chiêu thứ hai, được chiêu thứ hai thì quên chiêu thứ ba, lúc đó bèn rối rít tập lại, cả đám lại nhao nhao lên một chập.

Giữa lúc đó thì nghe có tiếng quát: “Bọn chúng mày cút hết cho tao!”

Tiếng quát vừa to, vừa vang, vừa lạ làm cả bọn nhóc giậy nảy mình. Trông ra thì có bốn kẻ không biết từ đâu mới xuất hiện, tướng tá to lớn, mặt mày ra vẻ dữ tợn. Tên đi đầu đội một cái mũ lưỡi trai quay ngược ra sau, mặc cái áo sơ mi có lẽ là màu trắng nhưng vì đã quá cũ nên ngả sang màu vàng, hai cái cúc trên cùng vô tình mà cũng như hữu ý đã bung ra để lộ phần bộ ngực nửa lạc nửa mỡ ra ngoài. Chính hắn là kẻ vừa lên tiếng. Ba tên đứng đằng sau ăn mặc cũng tương tự, mặt mày bụi bặm, nhưng nhìn chung đều lứa tuổi thiếu niên, chừng mười năm mười sáu, riêng thằng đầu sỏ có lẽ lớn hơn, chắc mười bảy hay mười tám gì đấy.

Bọn thằng Cuội ngơ ngác nhìn nhau rồi lại nhìn những kẻ lạ mới tới, nhất thời chưa hiểu chuyện gì xảy ra.

Tên kia lúc đó liền nhắc lại: “Tao bảo là mấy thằng nhóc tụi mày biến hết, từ nay chỗ này là của tao. Cấm thằng nào được mò tới!”

Thằng Đen, lớn nhất bọn, đứng ra đối đáp: “Bọn tui tới trước, ông là ai mà đòi đuổi?”

Tên kia vốn tự tin với vẻ ngoài bặm trợn của mình thì chỉ cần dọa một câu là bọn con nít ranh sẽ khiếp vía mà bỏ chạy, không ngờ thằng Đen lại ngang nhiên trả lời như thế khiến hắn không khỏi ngạc nhiên, bèn nói: “Á cái thằng này nhóc con mà láo gớm! Muốn biết tao là ai hả.” Nói đoạn giơ giơ nắm đấm lên. “Mày biết rồi là hối hận đấy. Nhưng thôi, để cho chúng mày được rõ, tao cũng xin tự giới thiệu: tao là Phong, ai cũng gọi tao là Phong Báo hết, giờ thì có biến đi không thì bảo?”

Đám nhóc nhìn nhau bàn bạc. Thằng Cuội nhỏ tiếng nói: “Bọn mình tám đứa, bọn nó tuy to nhưng cũng chỉ có bốn đứa. Hôm nay mà bị đuổi thì chỗ này về sau không thể đến được nữa. bọn mày tính sao?”

Thằng Sún gằn giọng nói: “Chơi luôn!” Mấy đứa khác đều gật đầu nhất trí, duy có thằng Hip nhỏ nhất thì nói: “Mấy anh nhớ che cho em nhe!”

Thằng Đen sau khi hội ý liền ngang nhiên đáp: “Giờ không đi thì sao?”

Tên tự xưng là Phong Báo vừa nghe thì trợn mắt nói: “Mẹ bọn mày, không ăn đập thì không sợ!”

Nói xong liền bước lên định túm đầu thằng nhóc mà bợp tai cho mấy cái.

Thằng Đen thấy cái dáng hộ pháp của Phong Báo thì chân cũng đã hơi run, khí thế khi nãy tan biến đi đâu sạch, đứng chết trân một chỗ. Nhưng cánh tay của Phong Báo còn chưa kịp núm vào đầu của nó thì dưới bụng hắn đã nhói lên một cái đau điếng, thì ra thằng Cuội đứng phía sau đã chủ động xông lên sút vào bụng hắn. Thằng nhóc ra đòn bất ngờ nên đắc thủ, lớn tiếng bảo: “Bọn mày đừng sợ, đập chết bà bọn nó đi!”

Vừa nói xong lại vung cước sút cho Phong Báo một cái nữa. Phong Báo khi nãy là do thiếu đề phòng nên mới bị trúng đòn, lần này sao dễ dàng vậy được. Hắn liền thòng tay xuống chụp luôn lấy cái chân nhỏ xíu của thằng Cuội đang đá tới, toan quăng nó sang một bên. Nhưng thằng Cuội thân thủ linh hoạt, mấy bữa nay cũng đã học được mấy chiêu võ của thằng Long, chân vừa bị túm đã mượn lực nhảy bổng lên, từ trên không giáng thẳng một đấm vào giữa mắt trái Phong Báo. Phong Báo đau quá rú lên một tiếng de về sau, những tên đi cùng thấy đại ca lâm trận thất thủ tức thì sắn tay áo xông lên.

Đám nhóc thấy thằng Cuội liều lĩnh thì tinh thần cũng hăng hái hẳn lên, liền hò hét nhảy vào hỗn chiến với đám to con. Tám đứa nhóc bâu lấy ba thằng lớn vung tay múa chân đánh nhau loạn xạ, tiếng huỵch huỵch, tiếng la oai oái, tiếng quát tháo, chửi bới cũng vang lên không ngớt, tưởng như đánh thì ít mà chửi nhau thì nhiều. Cả hai bên đều là trẻ bụi đời, cách ăn cách nói đã nhiễm rất nặng từ dân đường phố, không có cái từ tục tĩu nào là không nói được.

Phong Báo xoa xoa con mắt trái đang sưng húp, mặt đỏ bừng bừng. Hắn tự phụ cũng có chút võ nghệ, xưa nay chưa bị mất mặt đến như thế bao giờ, lại bị một thằng con nít đấm cho tím cả mắt. Lửa giận của hắn lúc đó đã bốc lên tới đầu, tóc tai dựng đứng, mục quang bắn thằng vào thằng Cuội đang đánh hăng máu nhất, nghiến răng nghiến lợi mấy cái rồi nhảy thằng vào vòng chiến. Hắn một tay túm thằng Híp, một tay gạt thằng Sún, chớp mắt đã quăng hai đứa ra xa, rồi hồng hộc núm cổ thằng Cuội nhấc lên vận sức bợp tai liền mấy phát như trời giáng.

Đám nhóc xét cho cùng vẫn chỉ là con nít, kịch chiến với ba tên kia vốn đã yếu thế, bị đập cho te tua,nhưng miễn cưỡng thì vẫn có thể cầm cự giằng co được. Đến khi tên Phong Báo bước vào thì cục diện thắng thua lập tức được định, từng đứa từng đứa một bị đánh cho dạt cả vào một góc sân.

Thằng Cuội bị ăn hai tát nảy lửa của Phong Báo, mắt nổ đom đóm, đầu óc quay cuồng không rõ chuyện gì nữa, chỉ thấy toàn thân bị nhấc bổng khỏi mặt đất, chưa kịp định thần thì đã nghe tiếng nghiến răng ken két xổ ra một câu tục tĩu rồi nói: “Con bà nhà mày, rượu nhẹ đếch uống lại muốn uống rượu mạnh. Để hôm nay tao lấy tạm hai cái răng trước cảnh cáo, bữa sau còn thấy tụ tập ở đây thì tao đập gãy chân.” Nói rồi lại vận sức tát lia lịa.

Thằng Cuội như con mèo bị chịt cổ, không sao kháng cự được. Ba tên đàn em của Phong Báo ẩu đả với đám nhóc cũng bị sứt môi bầm mặt, đang sẵn điên máu, thấy đại ca xả giận lên người thằng Cuội thì cũng muốn học theo, liền quắc mắt nhìn vào những đứa còn lại đang túm tụm ở góc tường.

Đám nhóc thấy thằng Cuội rơi vào tay Phong Báo thì sợ hãi thì ít mà tức giận thì nhiều. Chúng thấy đồng bọn bị hành hạ như vậy thì lửa giận cũng bốc lên, mím môi mím lợi chảy cả máu, nhưng sức không địch lại, nhất thời không biết làm sao. Bỗng thằng Tí níu níu tay thằng Đen rồi chỉ xuống dưới đất. Thằng Đen lập tức hiểu ý quát lớn: “Ném chết con bà bọn nó đi.”

Căn nhà này vốn bị bỏ hoang, nhiều bức tường đã bị đổ nát, trên sân vương vãi rất nhiều gạch đá. Đám nhóc lợi dụng điều đó hùa nhau nhặt đá ném xối xả vào bốn tên kia, tất nhiên là tránh không để trúng thằng Cuội. Đánh nhau thì tám đứa địch bốn không lại, những ném đá thế này thì số đông lập tức áp đảo, gạch đá bay rào rào hết đợt nọ đến đợt kia.

Bốn tên kia làm sao ngờ được lũ nhóc lại nghĩ ra trò này, chúng vô cùng hoảng hốt, cuống cuồng vung tay lên che chắn trước mặt, không kịp phản công. Nhưng cự ly giữa hai bên rất gần, che chắn thế nào cũng bị ném cho toác cả máu, phải liên tục thối lui.

Thằng Đen vừa ném vừa nhắc nhở: “Không được ngừng tay, coi chừng bọn nó ném lại.”

Phong Báo tay đang bận giữ thằng Cuội, bất ngờ bị tấn công làm sao kịp né tránh, chớp mắt đã ăn mấy cục đá vào mặt, mắt hoa cả lên, vội buông thằng Cuội ra mà lùi lại. Thằng Cuội vừa thoát liền nhịn đau nhập hội ngay với đồng bọn gia tăng sức công kích.

Bốn tên bị ném cho lui hẳn về góc tường phía bên kia. Bỗng nghe Phong Báo gầm lên: “Chúng mày nhịn đau, ném lại bọn nó.”

Đám đàn em vốn đang hoảng loạn, nghe thấy đại ca ra chỉ thị liền lấy lại tinh thần, lập tức nhặt đá phản công.

Thằng Sún khi đó mới nói: “Chạy thôi bọn mày, địch không lại chúng nó đâu.”

Nói xong thì đám nhóc hô hào vượt tường chạy ra ngoài đường, thoáng một cái đã mất hút.
Phong Báo đầu toác cả máu, ánh mắt sôi sùng sục gằn giọng quát: “Tao mà không đập chết từng thằng thì đếch phải người nữa.”

Đám nhóc chạy một mạch về nhà không ngoái đầu lại, tới nơi đứa nào đứa nấy thở hồng hộc như trâu, mặt mũi sưng vù tím tái, đầu tóc bờm xờm, vốn đã bẩn thỉu giờ lại càng tả tơi. Riêng thằng Cuội là nặng đòn nhất, bị ăn liền mười mấy cái tát của tên hộ pháp Phong Báo, giờ khuân mặt đã sưng vù sưng vếu, đỏ như một quả gấc, trông đến tội nghiệp.

Thằng Đen vừa thở vừa chửi: “Bỏ mẹ mấy thằng chó, nó mà không to con thì tao đập chết cha chúng nó!”

Thằng Trọc cũng tiếp lời: “Bắt nạt con nít, đúng bọn mất dạy!”

Cứ thế mỗi đứa một câu, nhốn nháo hết cả lên.

Đang lúc chửi hăng máu thì bỗng nghe có tiếng nói: “Mấy đứa làm gì mà ăn tục nói bậy ghê vậy?”

Tiếng nói vừa dứt, cả đám nhóc im bặt, không dám mở mồm thêm một câu nào nữa.

Thằng Sún khe khẽ nói: “Anh Tài đến, anh đã dặn bọn mình nói chuyện không được chửi tục”.

Quả nhiên thằng Long với Võ Tài xuất hiện. Vừa nhìn thấy thảm trạng của đám nhóc, Võ Tài hỏi ngay: “Cái gì vậy này, ai đánh mấy đứa, có chuyện gì?”

Thằng Long đá chống xe xuống bước tới, lập tức văng ra một câu tục tĩu nói: “Đứa nào đánh?”

Võ Tài liền nhắc: “Dặn bọn nhóc không nói tục chửi bậy mà mày cứ mở mồm ra là chửi vậy.”

Thằng Long lập tức sửa lại: “Đúng rồi, không được chửi bậy. Này, thằng nào đánh mấy đứa ra nông nỗi này, mau nói anh nghe để anh đi xử nó cho.”

Bọn nhóc thấy thằng Long đã đứng ra bảo kê thì mạnh dạn hẳn lên, lập tức nhao nhao thuật chuyện. Nhưng tám đứa tám cái mồm, mỗi đứa nói một phách không đứa nào nghe đứa nào khiến cho thằng Long với Võ Tài nghe mà nhức hết cả đầu, không hiểu đầu đuôi ra sao. Cuối cùng Võ Tài quát: “Im lặng, im lặng coi!”

Bọn nhóc đang nói sung, liền nuốt ngay chữ vào bụng mà im tiếng.

Võ Tài lại tiếp: “Mấy đứa nói lung tung quá anh không hiểu. Cuội, em kể lại đầu đuôi coi.”

Thằng Cuội được chỉ định liền đem việc đã xảy ra thuật lại một lượt, lời lẽ rõ ràng, ý tứ mạch lạc, tuy còn bé nhưng nói năng đâu ra đấy. Võ Tài vừa nghe vừa gật gù, còn thằng Long thì càng nghe mặt càng đỏ, chưa đợi thằng Cuội kết thúc câu chuyện đã đập bàn quát lớn: “Bỏ mẹ mấy cái thằng mất dạy, lại dám bắt nạt cả đệ tử của tao. Ngày mai dẫn anh ra đấy hỏi tội bọn nó.”
Đám nhóc thầy thằng Long khí thế hừng hực thì mừng rỡ ra mặt, lại nhao nhao lên, tưởng như chỉ muốn xuất phát đến ngay căn nhà hoang đó. Nhưng Võ Tài lại ổn định trật tự rồi hỏi: “Mấy đứa có biết mấy thằng đó là bọn nào không?”

Thằng Cuội đáp: “Nó chỉ tự xưng là Phong Báo, bọn em chưa thấy bao giờ. Căn nhà hoang đấy là chỗ bọn em vẫn thường hay tụ tập chơi đùa, không biết sao tự dưng nó lại đến đuổi đi.”

Nó lại hỏi: “Căn nhà hoang đó ở xa không?”

Thằng Cuội nói: “Ở trong một con đường hẻm vắng, rất ít thấy người qua lại, cũng chẳng biết của ai. Bọn em chơi ở đấy cả năm rồi mà cũng chưa từng thấy ai đến.”

Võ Tài gật đầu rồi nói: “Bọn nó dám ra tay đánh mấy đứa, ngày mai anh với anh Long sẽ tới hỏi tội nó, rồi đòi lại cái chỗ đấy cho. Nhưng trước hết anh phải nhắc lại với mấy đứa một lần nữa: con nít không được chửi tục nói bậy, mấy đứa nghe rõ chưa.”

Võ Tài nói tuy không lớn nhưng mà nghiêm. Bọn nhóc vốn rất sợ nó, chỉ còn biết cúi đầu vâng lời. Nó nhìn thương thế mấy đứa mà lắc đầu lo lắng, bèn chạy đi mua Oxy già, bông băng, băng keo cá nhân…về sơ cứu cho cả bọn. Ngoài thằng Cuội khuân mặt biến dạng, mắt mũi sưng húp thì số còn lại cơ bản cũng không có gì đáng ngại. Thằng Long vừa thoa thuốc lên mặt thằng Cuội vừa xuýt xoa: “Cái bọn khốn kiếp, đi đánh một thằng nhóc ra nông nỗi này, đúng là đáng chết.”

Thằng Sún tuy đau nhưng như sực nhớ ra gì đó liền nói: “Anh Tài hứa mấy bữa nữa dắt bọn em đi ăn tiệc, nhớ đó nhé.”

Đám nhóc lại nhao nhao nhắc nhở. Võ Tài sực nhớ ra chuyện này bèn cười nói: “Được rồi, anh nhớ rồi, hôm đấy hai đứa anh dẫn bọn em đi ăn một bữa no nê.”

Đám nhóc vốn là con nít ngây thơ, quên cả đau đớn lẫn việc đánh nhau, vỗ tay reo hò. Bỗng thằng Tài nhớ ra một chuyện gì đó nói: “Phải rồi, từ hôm nay ngoài chuyện học chữ, anh sẽ dạy mấy đứa một môn võ luôn. Tập môn này xong thì chỉ cần mấy đứa biết đoàn kết lại, thì có gặp bốn tên to xác như hôm nay nữa cũng không cần phải sợ.”

Đám nhóc lại vỗ tay hoan hô. Thằng Cuội má xưng húp cũng ráng hỏi: “Anh Tài dạy bọn em chiêu gì thế.”

Thằng Long cũng quay qua thắc mắc: “Mày định dạy gì cho bọn nhóc à?”

Võ Tài xoa xoa tay nói: “Dạy trận pháp. Trong võ công của bản phái có một trận pháp gọi là Bát Thú Quần Ma. Môn này không khó lắm, vừa vặn lại có tám đứa nhỏ, vừa đúng số lượng để tập.”

Thằng Long kiến thức về võ học thua xa Võ Tài, chưa nghe qua cái tên này bao giờ bèn nói: “Tao mới nghe qua trận pháp bốn người, năm người, sáu người. vậy có cả trận pháp tám người à.”

Võ Tài nói: “Nói về mảng này thì môn phái chúng ta có tất cả hai mươi tám loại trận pháp.

Trong đó ít nhất là trận ba người, nhiều nhất là trận hai mươi tám người. Trận pháp càng đông thì càng phức tạp, biến hóa càng rối rắm.”

Thằng Long nói: “Trận pháp tới tám người, liệu bọn nhóc có học nổi không.”

Võ Tài cười bảo: “Chắc sẽ được thôi. Trận này tuy đông như cũng khá đơn giả. Nó mô phỏng hình ảnh của loài Sói. Sói khi săn mồi thường đi theo đàn, ép con mồi vào thế bị động sau đó tìm điểm yếu ra đòn sát chiêu. Trận pháp này chú trọng sự linh hoạt, nhanh nhẹn, lại không cần quá tính toán hay mưu mô, rất thích hợp cho những đứa con nít ngây thơ tập. Bọn con nít chỉ gì thì sẽ làm y như vậy, đó cũng là một điểm mạnh.”

Thằng Đen sốt ruột hỏi: “Vậy bọn em học luôn chứ anh.”

Nó đáp: “Không vội. Trước khi học trận pháp phải học quyền pháp, cước pháp, tấn pháp, côn pháp, xảo pháp nữa, phải học cả tâm pháp nội công căn bản. Những thứ đó chí ít cũng phải mất sáu tháng.”

Bọn nhóc nghe qua trợn hết cả mắt, đồng thanh đáp: “Sao nhiều dữ vậy!”

Thằng Long nói: “Chứ mấy đứa tưởng học võ dễ lắm hả, vậy có chịu học không?”

Cả bọn sợ Võ Tài đổi ý, ríu rít đáp: “Học, học anh, bao nhiêu cũng học hết!”

Võ Tài cười nói: “Tất nhiên học võ là phụ thôi, học chữ mới là chính. Từ hôm nay sẽ học chữ sớm hơn một tiếng đồng hồ, rồi sau đó học võ. Mấy đứa thấy có được không?”

Đứa nhóc lại một phen nhao nhao tán đồng.

Võ Tài lại chợt hỏi: “Mà tiệc sinh nhật là hôm nào ấy nhỉ?”

Thằng Cuội đáp: “Ngày mốt anh à.”

Nó gật đầu nói: “Vậy thôi được rồi, lấy sách vở ra đi. Để anh xem mấy bữa nay học hành thế nào rồi.”
Ngọc Thấu
 
Chỉnh sửa lần cuối:
Bên trên